Bây giờ chúng ta hãy cố hiểu lời kinh này.
“Xem mà không thấy,….” Mọi thứ có thể được nhìn thấy, vì nhìn thấy là trong tay tôi, nhưng Ngài không ở đâu để mà được nhìn thấy. Với mọi sức mạnh của mình, tôi có thể tìm Ngài; và vậy mà khi mắt tôi định vị Ngài, không cái gì là thấy được ngoại trừ rỗng bao la. Vậy, lời kinh bí mật nhất của người tìm kiếm tâm linh sadhakas là: chừng nào ông còn giữ việc nhìn mọi thứ, biết rằng ông đã không thấy Thượng đế. Trong thiền nữa, chừng nào bạn còn thấy cái gì đó – dù là ánh sáng hay phúc lạc, dù là Rama hay Krishna, Jesus hay Phật – biết rằng bạn vẫn chưa thấy Ngài. Thế thì, khi nào Ngài sẽ biểu lộ? Khi không cái gì là thấy được và chỉ việc thấy còn lại. Có rỗng khắp xung quanh, hư không. Mắt nhìn một cách phi đối thể và có sáng thuần khiết. Thế thì, biết rằng đó là Ngài.
Ngài mãi mãi vẫn còn không được thấy. Bạn thấy Ngài và vậy mà Ngài vẫn còn không được thấy: “Xem mà không thấy.” Việc xảy ra có ý nghĩa không xảy ra trong việc tới của Ngài trong cái nhìn, mà trong hành động nhìn. Biến đổi xảy ra là do nỗ lực của tôi để nhìn chứ không phải là hiện hữu của Ngài được thấy. Do đó, khi ai đó nói người đó đã có darshan, người đó không ngụ ý người đó đã thấy Ngài; người đó ngụ ý quyền năng cảm nhận của người đó đã trở nên thuần khiết tới mức người đó có thể nhìn vào trong hư không. Chiếc gương đã trở nên tinh khiết, phi khiếm khuyết tới mức không phản xạ nào hình thành trong nó. Nó là rỗng, nó là hư không. Trong trạng thái rỗng này, nó cho phản xạ của rỗng: cái không thấy được, thực tại không thấy được (chân lí).
Thánh Augustine đã nói: “Không hỏi về Thượng đế. Chừng nào ta không được hỏi, ta biết Ngài. Ngay khi ông hỏi, ta lâm vào tình thế khó xử. Do đó ta cầu xin ông đừng hỏi. Ta đã thấy Ngài; nhưng ta không thể mô tả Ngài cho ông được.”
Người Sufis có cuốn sách – Sách về các sách. Nó là cuốn sách trống trơn, chẳng cái gì được viết trong nó. Nó có 200 trang – toàn trống trơn. Không nhà xuất bản nào sẵn sàng xuất bản nó; trong 1500 năm nó vẫn còn không được xuất bản. Gần đây một nhà xuất bản tình nguyện xuất bản nó, nhưng thế thì cũng chỉ khi một người Sufi đề nghị viết lời nói đầu quãng mười trang. Lời nói đầu này cho lịch sử của cuốn sách này – ai viết cuốn sách này đầu tiên, ông ấy đã trao nó cho ai, người này thế rồi lại trao nó cho ai. Bạn có thể đọc cuốn sách này. Mặc dầu không có gì để đọc, thực nghiệm này là đáng thử. Thử và đọc trang rỗng với sự quan tâm và tập trung nhiều nhất như bạn sẽ làm với một trang được in. Bạn sẽ muốn gập sách lại nhanh chóng. Nhưng lịch sử nói rằng ông fakir như thế và như thế đã đọc cuốn sách này. Ông ấy đã đọc đi đọc lại, và thế rồi lại đọc đi đọc lại. Một ông fakir đã đọc nó năm mươi lần trong đời mình. Một ông fakir đã không ăn đồ ăn mãi cho tới khi ông ấy đọc nó suốt cả ngày. Những người này đã có thể đọc cái gì vậy?
Nếu một người dán mắt vào các trang rỗng với sự tập trung đầu đủ, mắt người đó cũng sẽ trở thành trống và rỗng. Điều này phải đã là một thực nghiệm trong thiền. Người đó sẽ đọc cái gì? Cho dù tâm trí đọc, dần dần mọi từ bên trong sẽ bị mất đi. Chung cuộc, sẽ không cái gì còn lại bên trong, và thế thì tâm trí sẽ trở thành trống như tờ giấy trống trước nó.
Phương pháp này đã là phổ biến trong những người Sufis. Mọi người hỏi: “Ông đã đọc Koran, ông đã đọc Kinh Thánh chưa? Tốt và hay. Nhưng ông đã đọc Sách về các sách chưa?” Nó đã được coi là sách về các sách.
Thánh Augustine nói: “Ta thấy Ngài, nhưng khi ông hỏi, ta thấy bản thân ta lâm vào khó khăn.” Kinh này nói: “Xem mà không thấy.”
Hiểu điểu này cho rõ. Ngài không bao giờ có thể được thấy. Người sadhaka người tham gia vào nỗ lực thấy Ngài, kết thúc trong tưởng tượng nào đó của riêng người đó.
Mọi người tới tôi và nói, “Cho chúng tôi cái neo nào đó, cái cột chống nào đó để làm theo – Rama, Krishna, Phật – ai đó để thiền về!” Nếu tôi nói, “Chỉ thiền thôi,” điều đó trở thành khó cho họ. Thiền về ai? Để mắt vào đâu? Chỗ nào đó, hình thể nào đó, được cần và mắt được cố định vào nó.
Nhưng chừng nào mắt còn chưa dừng lại trên cái vô hình dạng, bạn không thể có bất kì trải nghiệm nào về huyền tối thượng. Mãi tới thời gian đó, bất kì cái gì chúng ta thấy, bất kì cái gì chúng ta biết sẽ là hình thể của thông minh riêng của chúng ta. Dù linh thiêng thế nào, dù cái nhìn thuần khiết thế nào – dù chúng có thể là hình thể của Rama hay của Krishna họ sẽ chỉ là giới hạn xa nhất của tâm trí. Chừng nào tâm trí vẫn còn tiếp tục tạo ra hình dáng và hình thể, người ta không thể gặp Ngài, người là vô hình thể. Do đó, Ngài được gọi là vô hình thể.
“Ngóng mà không nghe….” Mọi thứ trong thế giới này là nghe được. Từng vật có rung động riêng của nó và các sóng rung động. Mọi thứ trên thế giới này đều có thể được nghe; duy nhất Thượng đế là không thể nghe được. Ngài dường như không phát ra rung động. Chúng ta có thể bắt được sóng âm nhạc của Ngài từ đâu, giai điệu của Ngài là gì?
Chúng ta phải nghe Ngài, nhưng chỉ có một cách làm như vậy. Tai bạn nên bắt đầu loại bỏ mọi âm thanh, mọi rung động bên ngoài. Thế thì một khoảnh khắc tới khi tai không nghe âm thanh; chúng trở thành vô âm. Thế thì, chỉ im lặng còn lại. Khi tai dừng bắt lấy mọi rung động, thế thì cái ‘được nghe’ là Ngài, người mãi mãi không thể nghe được, Ngài không bao giờ được nghe thấy.
Svetketu trở về nhà sau khi hoàn thành học tập về mọi shastra. Bố anh ta hỏi anh ta, “Con đã học mọi điều có thể được học, nhưng con có nghe nói cái mà không thể được nghe không?” Svetketu đã rất tự hào về thành tựu của mình. Anh ta đã làm chủ mọi tri thức về Vedas. Anh ta đã tự tin rằng anh ta biết mọi điều có thể được biết và bố anh ta chắc sẽ tự hào về thành tựu của anh ta. Nhưng chính câu hỏi thứ nhất bố anh ta đã hỏi là: “Con đã nghe thấy cái mà không thể nghe được không?”
Svetketu đáp rằng anh ta chẳng biết gì về kinh sách shastra như vậy. Mọi shastra đều là có thể nghe được. Do đó, mọi điều anh ta đã học đều là có thể nghe được. Tên Ấn Độ cho kinh sách là shruti hay smriti: cái mà có thể được nghe và cái mà có thể được nhớ. Do đó, Thượng đế không thể hiện hữu trong shastra; Ngài là không thể nghe được. Shastra có thể được nghe, có thể được nhớ, nhưng Ngài vẫn còn xa đằng sau. Svetketu đáp, “Cái mà không thể nghe được, con đã không nghe thấy.”
Bố anh ta nói, “Thế thì quay lại đi. Mọi thứ con đã thu được là vô dụng. Mọi cái mà tri thức này có thể làm là cung cấp sinh kế cho con. Bố phái con đi để trở thành một brahmin, không phải tu sĩ. Con có thể kiếm sống theo cách khác nữa, vì con là một brahmin bởi việc sinh. Nhưng con sẽ không đạt tới cái gì. Con chỉ có thể gọi bản thân mình là một brahmin thực thụ vào ngày con nghe thấy cái không thể nghe được. Chỉ khi Brahma được nghe thấy hay nhìn thấy thì người ta mới có thể trở thành một brahmin. Con sẽ phải quay lại.”
Svetketu quay lại và đã không trở về trong nhiều năm. Anh ta đi và bảo thầy của mình điều bố anh ta đã bảo anh ta. Thầy nói, “Ta chỉ có thể nói cho con điều có thể được nói; ta chỉ có thể dạy cho con điều có thể được dạy. Cậu ngốc, làm sao ta có thể nói cho con cái mà không thể được nghe thấy?”
Svetketu đã nói rằng anh ta không thể trở về nhà mà không nghe thấy cái không thể được nghe thấy. Thế rồi thầy chỉ cho anh ta điều phải làm. Thầy nói, “Đem các con bò của đạo tràng đi sâu vào trong rừng rậm. Không quay về chừng nào chưa có đủ một nghìn con.” Đã có bốn trăm con bò trong đạo tràng.
“Con sẽ làm gì trong rừng rậm?” Svetketu hỏi.
Thầy đáp: “Lo nghĩ về bò, không về bản thân con. Quên rằng con hiện hữu, và hoàn toàn bị tham gia vào việc phục vụ bò. Khi bốn trăm bò trở thành một nghìn, con có thể quay về.”
Svetketu rời khỏi đạo tràng cùng bò. Anh ta cũng bỏ cái ngã của mình lại sau, như thầy anh ta đã ra lệnh cho anh ta. Anh ta đi sâu vào trong rừng rậm và bắt đầu trông nom gia súc. Từng ngày anh ta chăm sóc cho chúng ăn và uống. Anh ta thấy chúng được nghỉ ngơi đầy đủ. Anh ta đi qua những ngày phục vụ bò với sự chăm chú nhất điểm trụ. Nhiều năm tới rồi đi. Ban đêm anh ta đi ngủ ngắm sao. Mỗi sáng anh ta dậy cùng mặt trời. Không có người nào để anh ta có thể nói chuyện. Chỉ có bò quanh anh ta, chúng nhìn anh ta với đôi mắt trống của chúng. Một trong những lí do tại sao bò được người Hindu coi là mẹ là vì mắt của nó. Không con vật nào khác có cách diễn đạt vô hình thể và hư không trong mắt như bò. Khi mắt người phát triển cách diễn đạt này, người đó đạt tới thiền.
Svetketu không có cái gì khác để làm ngoài việc nhìn vào mắt chúng. Anh ta bắt đầu quên bản thân mình ngày càng nhiều. Và vậy rồi, ngày trôi qua trong nhiều năm. Svetketu đánh mất bản thân mình tới mức anh ta không nhận biết về sự kiện rằng số bò giờ đã là một nghìn.
Thế rồi, câu chuyện tiếp tục, bò tụ tập lại với nhau và nói với anh ta. “Svetketu,” chúng nói, “giờ chúng tôi là một nghìn rồi. Giờ là lúc về nhà.”
Thế là Svetketu trở về nhà cùng bò. Anh ta đi tới đạo tràng của thầy mình. Thầy bước ra, và đón Svetketu trong vòng ôm, nói, “Bây giờ không cái gì còn lại để hỏi. Giờ con có thể quay về với bố con.”
Svetketu hỏi, “Làm sao thầy biết rằng con đã nghe thấy cái không thể nào nghe được.”
Thầy đáp, “Con ta, ta đã thấy không phải một nghìn con bò mà một nghìn lẻ một con bò trở về.” Một nghìn con bò, và một con thêm nữa là bản thân Svetketu. Anh ta đã trở thành giống bò nhiều thế mắt anh ta tràn đầy với hư không. Anh ta đã bước đi giữa bầy gia súc dường như bản thân anh ta là một gia súc.
Thế rồi, một điều rất lạ xảy ra. Khi Svetketu về tới làng và bố anh ta thấy anh ta qua cửa sổ, ông ấy bảo vợ, “Svetketu đã trở về như một brahmin. Giờ nó sẽ tới và chạm chân tôi và tôi sẽ ở trong thế khó xử, vì tôi còn chưa là một brahmin; tôi còn chưa nghe thấy cái không thể nghe được. Cho nên tôi sẽ chạy trốn đây.” Người bố rời khỏi nhà từ cửa sau.
Khi Svetketu đi vào trong nhà và thấy bố mình không có đó, anh ta hỏi mẹ mình. Bà ấy nói, “Bố con đã đi xa để trở thành người brahmin. Ông ấy sẽ chỉ quay về khi nghe điều con đã nghe.”
Cái không thể nghe được chỉ có thể được nghe khi tai dừng nghe mọi âm thanh. Cái không thể thấy được chỉ có thể được thấy khi mắt bỏ mọi hình thể và hình ảnh. Chân lí được đạt tới bởi người có mơ bị mất mãi mãi; khi mắt không còn tạo ra hình ảnh hay thêu dệt mơ mà chỉ là trống và rỗng.
“Nắm mà không giữ….” Không thành vấn đề chúng ta hiểu Ngài bao nhiêu, không thành vấn đề chúng ta hiểu thấu Ngài bao nhiêu…. Sự thực là ở chỗ chúng ta càng siết chặt nắm tay của mình, Ngài càng đi ra khỏi bàn tay chúng ta. Ngài giống như không khí. Chừng nào lòng bàn tay còn mở, không khí vẫn còn. Ngay khi nắm tay được siết lại, không khí tuột ra ngoài.
Lĩnh hội là nắm tay của trí tuệ siết lại. Do đó, người thông minh bao giờ cũng căng thẳng. Nắm tay của trí tuệ của người đó bao giờ cũng siết lại. Nhưng người ta càng bám chắc vào trí tuệ, nó càng ít có đấy. Đây là lí do tại sao một người không thể là học giả và là người trí huệ đồng thời. Điều đó là rất khó, vì học giả giống như nắm tay khép lại trong khi người trí huệ giống như bàn tay mở. Nếu lòng bàn tay mở, mọi không khí của thế giới có thể ở trên nó; nhưng nếu nó bị khép lại, ngay cả không khí trên lòng bàn tay cũng tuột ra.
Nắm chặt và nó bị mất. Không nắm có thể giữ được nó vì việc nắm của chúng ta là nhỏ thế và Ngài là lớn thế. Cho nên nếu chúng ta khăng khăng giữ Ngài, chỉ việc nắm giữ còn lại lúc cuối. Người siết nắm tay mình bị bỏ lại chỉ với nắm tay của mình. Học giả thấy ông ấy bị bỏ lại chỉ với tâm trí của ông ấy, tâm trí bị đóng tứ phía, không một lối mở. Người trí huệ không có gì còn lại trong bàn tay ông ấy. Bàn tay ông ấy là rỗng. Do đó, mọi thứ tới bên trong bàn tay ông ấy.
Lời kinh này nói: “Nắm mà không giữ.”
Chúng ta sẽ phải đi sâu để nghiên cứu cái gì được ngụ ý bởi việc hiểu. Khi chúng ta lĩnh hội cái gì đó, chúng ta làm gì? Quá trình lĩnh hội là gì? Nếu một con vật lạ được mang tới trước bạn và bạn được yêu cầu hiểu nó, bạn sẽ làm gì?
Trong vùng núi, con linh dương chân trắng neel-gai sống. Nó không phải là bò, nhưng bằng cách nào đó giống như bò. Bạn có thể nói nó giống bò vì bạn biết bò là gì, trong khi bạn không biết con vật này.
Một người đàn bà tới thăm tôi. Cô ấy đã mang đứa con trai nhỏ của mình đi cùng. Cô ấy đã cảnh báo đứa con không được hái hoa trong vườn. Khi người mẹ đang bận nói chuyện với tôi, đứa trẻ đi vào vườn. Nó thấy người làm vườn đang tỉa cây bụi và loại bỏ hoa và cành. Nó chạy về và nói, “Mẹ ơi, có anh lớn đang cắt hoa và lá!” Đứa trẻ chỉ quen với trẻ con; và trong việc cố giải thích về người này, nó chỉ có thể so sánh nó với đứa trẻ lớn.
Quá trình lĩnh hội là ở chỗ chúng ta so sánh cái đã biết với cái không biết. Chúng ta kết nối điều chúng ta biết với điều chúng ta không biết. Hiểu là thu cái không biết về ngôn ngữ của cái đã biết. Đây là điều chúng ta làm khi chúng ta cố hiểu cái gì đó mà chúng ta không biết; và khi chúng ta làm điều này, chúng ta nói chúng ta đã hiểu. Nếu Thượng đế cũng là một thực thể không biết chúng ta có thể đã hiểu Ngài bằng phương pháp trên. Nhưng Ngài là không thể được biết; đây là khó khăn.
Khoa học chấp nhận hai điều: cái biết và cái không biết. Đây là hai phân chia của thế giới. Cái không biết ngụ ý rằng cái không biết hôm nay nhưng là cái có thể được biết ngày mai. Chúng ta sẽ cố gắng và hiểu nó một ngày nào đó. Nói cách khác, chúng ta sẽ mở rộng chu vi của cái chúng ta biết cho tới khi nó bao phủ cái không biết. Do vậy, cái không biết sẽ trở thành cái biết. Đó là vấn đề thời gian. Khi ngày trôi qua, cái không biết sẽ trở nên ít hơn và cái biết sẽ tăng lên. Thế thì một ngày sẽ tới khi chúng ta sẽ nói, “Mọi thứ đều được biết.”
Tôn giáo tin vào ba lớp: cái biết, cái không biết và cái không thể biết. Khoa học tin vào hai lớp: cái biết và cái không biết. Đây là khác biệt giữa tôn giáo và khoa học. Tôn giáo nói có một số thứ đã biết và một số thứ không biết. Đây là hai phân chia được tạo ra bởi trí tuệ: cái biết và cái không biết; sáng và tối; sinh và chết. Đằng sau những thứ này – cái còn lại là cái không thể biết. Cái mà ở sau trí tuệ toàn thể là cái không thể biết – cái mà sẽ không bao giờ được biết. Bạn có thể biến cái không biết thành cái biết và cái biết thành cái không biết nhưng hỗ trợ nền tảng đằng sau hai điều này bao giờ cũng vẫn còn là không thể biết được.
Đây là khác biệt giữa tôn giáo và khoa học; đây là lí do cho cãi nhau giữa hai lĩnh vực này. Khoa học nói, “Chúng tôi sẵn sàng thừa nhận cái không biết. Nếu bạn nói Thượng đế là không biết, chúng tôi đồng ý. Nhưng chúng tôi sẽ biết Ngài một lúc nào đó trong tương lai.” Nhưng tôn giáo nói, “Thượng đế là không thể biết được. Ông không bao giờ có thể biết được Ngài.” Cái không thể biết được ngụ ý cái không thể được biến đổi thành ngôn ngữ của cái biết.
Thực tại tối thượng của sự sống bao giờ cũng sẽ vẫn còn là không thể biết được. Có lí do cho điều này. Lí do là ở chỗ con người của tôi là tí hon thế. Cái ‘tôi’ nhỏ vô cùng này là người biết, và cái tôi muốn biết là sự mở rộng khổng lồ, vô hạn. Người biết hiện hữu nhưng là nguyên tử trong sự tồn tại vô biên này.
Việc biết của tôi phụ thuộc vào những thứ rất bình thường. Một viên thuốc phiện có thể đánh ngã ý thức của tôi; một mũi tiêm morphin và tôi mất sức mạnh biết và cảm. Sức mạnh để biết của tôi nhỏ nhoi làm sao? Một hòn đá đập vào đầu tôi và tôi bị quật ngã, và với sức mạnh không có ý nghĩa này ở việc làm chủ của tôi, tôi bắt đầu lên đường để biết sự tồn tại bao la, vô biên, vô hạn này! Bên cạnh sức mạnh cảm nhận của tôi, chính con người tôi có thể bị phá huỷ bởi chỉ một mũi tiêm hay cú đâm dao. Và với sức mạnh không đáng kể này tôi bắt đầu lên đường nghiên cứu đại dương sự tồn tại vô giới hạn! Tôn giáo nói, “Chúng ta không bao giờ có thể biết.” Và điều tôn giáo nói là có tính khoa học và logic. Sức mạnh để biết của chúng ta là bao nhiêu? Chúng ta hãy nghiên cứu sức mạnh cảm nhận của chúng ta sâu hơn.
Đứa trẻ trong bụng mẹ là hoàn toàn vô ý thức trong chín tháng. Nó không biết gì. Khi nó được sinh ra, nó ngủ trong hai mươi hai giờ, thế rồi hai mươi giờ, thế rồi mười tám giờ vân vân. Cái gì xảy ra khi nó lớn lên? Nếu chúng ta sống trong sáu mươi năm, chúng ta dành hai mươi năm trong ngủ, trong vô ý thức. Bốn mươi năm còn lại chúng ta dùng vào tiến hành nghiên cứu của mình trong cuộc sống, điều tra. Nếu chúng ta điều tra vào bốn mươi năm này và chúng ta thấy rằng chúng ta đã biết cái để được biết trong ngay cả bốn mươi giây, thế là quá nhiều! Thay vì thế chúng ta thấy rằng bốn mươi năm này chúng ta cũng đã dành cho trạng thái vô ý thức. Chúng ta thậm chí không yêu cầu một khối lượng ý thức được cần cho một giây. Chúng ta cứ trượt vào trong vô thức và không nhạy cảm; và với tâm trí này được chất đầy với không nhạy cảm, chúng ta bắt đầu lên đường khám phá cái không biết bao la.
Từ “Con đường Đạo”, T.3, Ch.10, Đạo vô hình, không nghe được cũng không hiểu thấu được