Hiện hữu và vô hiện hữu

Nếu bạn được bảo tập trung sự chú ý của bạn vào ngọn lửa của chiếc đèn trong năm phút và loại mọi ý nghĩ khác ra, bạn sẽ biết việc đó là khó thế nào. Trong năm phút bạn không thể giữ được sự chú ý của bạn vào một chỗ. Cả nghìn vật cản trở sẽ tới trên đường. Cả nghìn ý nghĩ chất đầy tâm trí. Tâm trí vẩn vơ đây đó, mắt bắt đầu chớp, bạn quên ngọn lửa hoàn toàn. Bạn không có sức mạnh để tập trung vào ngọn lửa chỉ trong năm phút – bạn sẽ thu thập sức mạnh từ đâu để biết sự mở rộng kéo dài mãi, hoàn toàn thuyết phục của sự tồn tại?

Thế nữa, tôi ở đây hôm nay, nhưng tôi đã không ở đây hôm qua và tôi có thể không ở đây ngày mai; trong khi sự mở rộng vô hạn này bao giờ cũng là vậy và bao giờ cũng sẽ là vậy. Khi tôi vô hiện hữu, nó đã có đó; khi tôi sẽ không còn nữa, nó sẽ vẫn có ở đó. Làm sao tôi, trong sự tồn tại nhất thời của tôi, biết cái toàn thể? Một con sóng chồm lên trời và trong quá trình mở rộng để biết đại dương toàn thể! Thế rồi nó rơi xuống và mất hút trong đại dương.

Ý thức của người cũng chỉ là cú nhảy như vậy. Thế thì làm sao người có thể biết Thượng đế? Thế thì tôn giáo có nói rằng dốt là trong chính con người của chúng ta và rằng chúng ta không bao giờ có thể biết không? Không. Nhưng tôn giáo nói rằng chừng nào nỗ lực để biết có đó, việc biết không thể hiện hữu, vì trong chính nỗ lực này bản ngã nằm đó, ý thức rằng ‘Tôi hiện hữu.’

Chừng nào nắm tay còn được giữ khép lại, việc biết không thể hiện hữu. Nắm tay là nhỏ vô cùng, tí xíu. Mở nó ra, và lòng bàn tay chứa cái toàn thể; không còn các biên giới. Mở trí tuệ ra, phá vỡ mọi cửa của nó, để nó hội nhập với không gian bao la, không giữ biên giới nào, và việc biết xảy ra. Và vậy mà, kinh này thúc đẩy bạn hiểu điều này: rằng ngay cả thế, nó vẫn còn không bị chạm tới, không được thăm dò. Nhưng việc biết xảy ra, và bạn sẽ hiểu nó như vậy. Thế thì điều trở thành rõ ràng với bạn là nó là không thể hiểu thấu được.

Làm sao điều này xảy ra? Có nhiều lí do. Lí do thứ nhất là điều Kabir nói, “Ta đã tìm và tìm, và trong quá trình này ta làm mất bản thân ta.” Quá trình tìm kiếm là tới mức người tìm kiếm bị mất. Và khi người tìm kiếm bị mất, ai để chạm vào và cái gì sẽ được chạm vào? Người tìm kiếm không còn nữa! Chính con người của người tìm kiếm – bản ngã, cái ‘tôi’ – là chướng ngại duy nhất. Nicodemus đã hỏi Jesus, “Tôi sẽ bỏ cái gì để đạt tới Thượng đế?”

Jesus đáp, “Bỏ mọi thứ sẽ không đủ. Ông sẽ phải bỏ bản thân Nicodemus.”

Nicodemus đáp, “Tôi có thể bỏ mọi thứ khác nhưng làm sao tôi có thể bỏ được bản thân tôi? Tôi có thể bỏ mọi thứ khác và chạy đi, nhưng làm sao tôi có thể chạy khỏi chính cái ngã của tôi? Bất kì chỗ nào tôi đi, cái ngã sẽ ở cùng tôi.”

Jesus nói, “Đó là điều ông phải học. Ngày Nicodemus bị bỏ lại sau, ông sẽ gặp Thượng đế.”

Hiểu biết xuất hiện vào ngày người biết bị mất. Trí huệ bừng lên khi người biết bên trong không còn nữa: khi lòng bàn tay không còn khép lại.

Tuy nhiên bản ngã được nắm lại rất chặt theo mọi cách. Chừng nào nó chưa hoàn toàn được thoả mãn rằng cái gì đó vẫn còn lại trong lòng bàn tay của nó, nó không mở ra. Đó là lí do tại sao mọi người liên tục hỏi, “Làm sao tôi có thể tin được rằng Thượng đế hiện hữu chừng nào tôi chưa thấy Ngài?” Điều đó là nói: chừng nào Ngài còn chưa tới bên trong việc hiểu thấu của tôi.

Karl Marx đã nói, “Chừng nào chúng ta chưa thể mổ xẻ Thượng đế trong các phòng thí nghiệm của chúng ta, chúng ta không thể tin được rằng Ngài hiện hữu.” Nhưng để làm điều này, chúng ta sẽ phải cung cấp cái bàn đủ lớn để chứa Ngài. Thế nữa điều đó sẽ vẫn là khó cho Marx, vì ông ấy sẽ đứng ở một đầu bàn – một sinh linh tí hon, tầm thường – bên cạng thực thể bao la mà là Thượng đế. Làm sao ông ấy sẽ bắt đầu công việc của ông ấy? Điều đó sẽ giống như muỗi bắt đầu lên đường phân tích dãy Himalayas! Tuy nhiên tỉ lệ giữa muỗi và Himalayas có thể được đo. Khác biệt được tìm ra chắc sẽ không là gì so sánh được với khác biệt giữa người và Thượng đế. Muỗi ít nhất cũng có tầm quan trọng nào đó được xét trước Everest, nhưng trước Thượng đế, Marx thậm chí không tương đương với muỗi! Và vậy mà Marx xác nhận rằng ông ấy sẽ không tin vào Thượng đế chừng nào ông ấy chưa phân tích đầy đủ Ngài!

Không phải một mình Marx cảm thấy theo cách này. Tất cả chúng ta cảm thấy cùng cách này. Chúng ta nói rằng chúng ta sẽ tin vào Thượng đế chỉ nếu chúng ta có thể tin. Chừng nào chúng ta chưa thấy rằng Ngài hiện hữu, Ngài là vô hiện hữu. Điều cần thiết cho chúng ta là nhân chứng cho ngài để cho Ngài hiện hữu.

Lão Tử nói, “Nắm mà không giữ…” vì thế thì người định chạm bị triệt tiêu. Do đó Ngài được gọi là ‘không thể hiểu thấu’, vì người định chạm đã bị mất từ lâu trước đây. Thực ra, người tìm kiếm chỉ có thể chạm khi người đó không còn nữa, khi cái ‘tôi’ của người đó đã tan chảy hết. Không có cách nào để biết Ngài ngoại trừ bởi việc tắt ngấm hoàn toàn cái ngã.

Toàn thể dòng chảy cuộc sống của chúng ta là trong hiện hữu của chúng ta, và toàn thể dòng chảy tôn giáo là trong vô hiện hữu. Do đó, chúng ta không có khả năng thiết lập bất kì mối quan hệ nào với tôn giáo – vì toàn thể quá trình suy nghĩ của chúng ta được dựa trên sự kiện rằng ‘tôi hiện hữu.’ Darwin đã nói rằng sự tồn tại của toàn thể nhân loại có thể được xác định bằng sự tồn tại của một thuật ngữ: đấu tranh sinh tồn. Darwin là đúng. Nhưng Phật không thể bị thuyết phục bởi phát biểu này về đấu tranh sinh tồn. Nếu chúng ta hiểu đúng về Phật, sự tồn tại ngụ ý, đấu tranh để vô hiện hữu. Nó là nỗ lực làm mất bản thân người ta; phá huỷ chính sự hiện hữu của người ta. Tất cả chúng ta đều phấn đấu để hiện hữu – để ngày càng nhiều hơn còn Phật phấn đấu để vô hiện hữu; là rỗng, là hư không, là làm mất bản thân người ta. Nếu chúng ta so sánh bản thân chúng ta với nước, chúng ta có thể nói rằng chúng ta phấn đấu để trở thành giống băng: cứng; mạnh, được đảm bảo hiện hữu. Nếu Phật là băng, ông ấy chắc muốn tan ra và trở thành nước – lỏng. Và nếu ông ấy có thể làm cho điều đó xảy ra, ông ấy sẽ muốn biến thành hơi để cho không hình thể nào còn lại. Ông ấy thậm chí sẽ không thích là hơi vì hơi nữa cũng phải có một loại hình thể nào đó.

Tôn giáo là dũng cảm để bị triệt tiêu. Do đó, khi một người quay sang tôn giáo, người đó trước hết phải tìm liệu người đó có được chuẩn bị cho việc triệt tiêu, cho việc tắt ngấm không. Người đó có được chuẩn bị để chịu đựng gian khổ, nỗi đau mất bản thân mình không? Chỉ thế thì người đó có thể đi hướng tới tôn giáo.

Chúng ta tiến theo hướng tôn giáo, nhưng với lí do sai. Cho nên tôn giáo của chúng ta trở thành giả. Chúng ta tiếp cận tôn giáo để là cái gì đó nhiều hơn, để đạt tới cái gì đó nhiều hơn. Chúng ta nói rằng chúng ta muốn đạt tới cõi trời, phúc lạc. Chú ý của chúng ta là để giữ an ninh cho cuộc sống của chúng ta sau chết. Chúng ta phấn đấu vì cuộc sống không chết vì trong cuộc sống này, chết là chắc chắn. Cho nên ở đây nữa, chúng ta đấu tranh sinh tồn. Mọi nỗ lực của chúng ta là để cứu bản thân chúng ta. Đó là lí do tại sao chúng ta thấy các tu sĩ dạy chúng ta, “Chỉ những người ở cùng chúng tôi sẽ được cứu. Vào ngày phán xử, chúng tôi sẽ là nhân chứng cho ông.” Những thầy giáo như vậy có hàng nghìn người đi theo vì tất cả chúng ta đều muốn được cứu. Ham muốn này có thể dễ dàng bị khai thác.

Khó cho thầy giáo như Phật tìm ra người đi theo vì ông ấy nói, “Chết đi! Làm mất bản thân ông, là không còn nữa, vì chính con người ông là nỗi khổ lớn của ông. Trở thành rỗng, hư không.”

Lão Tử nói, “Ngài được gọi là không thể hiểu thấu vì người định chạm vào Ngài bị mất đi khi Ngài xuất hiện.” Chừng nào chúng ta còn hiện hữu. chúng ta có thể chạm, chúng ta có thể hiểu thấu, nhưng Ngài không xuất hiện. Hai người (bạn và Thượng đế) không thể gặp gỡ; điều đó là không thể được. Và vậy mà việc gặp gỡ xảy ra – trên bình diện khác. Vô hiện hữu của tôi và hiện hữu của Ngài gặp gỡ. Chừng nào mà ‘tôi hiện hữu’, Ngài vô hiện hữu. Khi tôi vô hiện hữu, toàn thể sự tồn tại trải qua biến đổi – và thế rồi, Ngài hiện hữu. Bản thân vô hiện hữu của tôi trở thành mắt thấy Ngài, thành tay chạm vào Ngài. Vô hiện hữu của tôi trở thành chính nền tảng cho biểu lộ của ngài. Vô hiện hữu của tôi là ngai vàng cho Ngài, người là chúa tể. Chừng nào ‘tôi’ còn ở trên ngai vàng, không có chỗ cho Ngài.

Thiền sư đã nói, “Khi khách tới, chúng ta dọn chỗ cho ông ấy. Người đi mời vị khách tối cao phải làm trống ngôi nhà đầy sự hiện hữu của mình.” Không một chút mảnh đất nào có thể được để lại cho bản ngã.

Do đó, Ngài được gọi là không thể hiểu thấu. Do vậy Ngài là vô hình, không thể nghe thấy và không thể hiểu được. Và do vậy, Ngài ở ngoài phạm vi nghiên cứu của chúng ta. Ngài thoát ra khỏi mọi cuộc truy tìm của chúng ta; Ngài tuột ra khỏi việc hiểu của chúng ta theo mọi cách và vẫn còn mãi mãi là không thể biết, không thể lĩnh hội được. Chúng ta phải hiểu điều này.

Ngài thoát khỏi mọi việc truy tìm của chúng ta. Tôi đã bảo bạn rằng có khác biệt giữa tôn giáo và khoa học, và phân biệt này là một trong các phân loại. Khoa học tin có hai phần của sự tồn tại trong khi tôn giáo tin có ba phần. Chính phần thứ ba này là chỗ nương tựa của tôn giáo.

Truy vấn là nguồn gốc, là nền tảng của triết học. Không thể có triết học trong thế giới mà không có truy vấn. Nhưng truy vấn không phải là chỗ dựa chính của tôn giáo. Chính vì lí do này mà mọi người từ phương Tây nói không có gì giống như triết học ở Ấn Độ. Ở mức độ nào đó họ là đúng. Triết học chưa bao giờ tồn tại ở Ấn Độ theo cùng nghĩa như nó đã tồn tại ở Hi Lạp và như nó tồn tại ở phương Tây ngày nay. Ấn Độ, Trung Quốc, quả thực, toàn thể phương Đông, nói rằng Thượng đế ở bên ngoài việc hiểu thấu của truy vấn. Không một câu hỏi nào của chúng ta đạt tới Ngài vì chúng là quá nhỏ, quá tí hon. Chúng ta hỏi loại câu hỏi nào? Câu hỏi nảy sinh từ kinh nghiệm, nhớ điều này.

Chúng ta hỏi, “Làm sao chúng tôi có thể tin Thượng đế chừng nào chúng tôi chưa thấy Ngài bằng mắt riêng của chúng tôi?” Kinh nghiệm của chúng ta về việc biết là việc thấy. Bất kì cái gì chúng ta thấy chúng ta tin, vì thế thì không có vấn đề về việc là sai của nó. Chúng ta đã không truy tìm đủ vấn đề này.

Trong mơ nữa, chúng ta thấy bằng mắt của chúng ta. Khi chúng ta mơ, mọi thứ dường như thực. Chính là chỉ khi bước đi buổi sáng mà chúng ta thấy nó đã là mơ. Liệu một ngày nào đó chúng ta có thức dậy để nhận ra rằng cái mà chúng ta gọi là sống đã không là gì ngoài giấc mơ dài! Một người có thể vẫn còn trong trạng thái mơ lâu bẩy mươi năm hay hơn! Và người đó sẽ không bao giờ biết rằng cái người đó đã thấy là mơ.

Chúng ta có nhiều đức tin vào mắt chúng ta hơn chúng ta đáng phải có. Nếu bạn đi ra sa mạc, bạn có thể thấy hồ nước ở một khoảng cách – mắt bạn bảo bạn nó có đó. Không chỉ mắt bạn thấy nước, nhưng chúng cũng thấy cả phản xạ của cây và bụi cây trên bờ hồ. Điều này không là gì ngoài ảo cảnh được tạo ra bởi những tia sáng mặt trời. Bạn sớm nhận ra điều đó, khi bạn tiến tới chốn đó. Bạn có thể thấy một số cây, nhưng hồ thì chắc chắn không có đó…. Và thực tại bạn đã thấy những gợn sóng trong hồ! Mắt đã thấy mọi điều này. Mắt lừa bạn!

Khi chúng ta đưa ra các câu hỏi liên quan tới Thượng đế, câu hỏi của chúng ta được kết nối không tránh khỏi với mắt. Chúng ta nói, “Tôi phải nhìn thấy Ngài, tôi phải nghe thấy Ngài, chạm vào Ngài.” Các câu hỏi của chúng ta được bao gồm bởi các trải nghiệm của giác quan chúng ta. Tuy nhiên nhớ, mọi truy vấn khi nảy sinh từ trải nghiệm của các giác quan không thể đạt tới ngay cả đường viền của sự tồn tại, vì Thượng đế ở bên ngoài mọi giác quan. Chúng ta sẽ không bao giờ có khả năng chạm tới Ngài từ bất kì chỗ nào.

Các kinh nghiệm của chúng ta là nền tảng cho việc truy tìm của chúng ta. Thế thì làm sao chúng ta có thể truy tìm về cái mà chúng ta chưa bao giờ biết tới? Việc truy tìm như vậy xứng đáng bao nhiêu?

Điều này dường như rất khó. Làm sao chúng ta có thể truy tìm về cái mà chúng ta không biết? Giả sử bạn đi tới một miền đất lạ nơi hoa hồng không mọc. Bạn cố nói cho họ về hoa hồng. Bạn sẽ nói gì? Bạn có thể nói, “Hoa hồng rất đẹp.” Họ có thể đặt viên kim cương trước bạn và nói, “Cái đó có đẹp không?” Họ sẽ nêu ra những câu hỏi tương ứng với kinh nghiệm về đẹp của họ. Bây giờ bạn sẽ thấy bản thân bạn bị lâm vào khó xử. Nếu bạn nói, “Không, không phải loại đẹp này,” họ sẽ cảm thấy khó chịu. “Thế thì bạn ngụ ý gì bởi đẹp?” họ có thể hỏi. Bây giờ nếu bạn nói rằng ở mức độ nào đó kim cương có thể được so sánh với hoa hồng, họ có thể hỏi, “Hoa hồng có kéo dài được như kim cương không?” Thế thì bạn phải nói rằng hoa hồng nở buổi sáng và tàn buổi tối; và họ sẽ chế giễu cái đẹp như vậy. Bạn có thể cố một cách vô vọng để nêu ra luận điểm của bạn, bạn có thể nói rằng kim cương là chết, thứ phi sống, trong khi hoa là thứ sống – nhưng họ sẽ từ chối đồng ý với bạn. Lí do chỉ là thế này: rằng câu hỏi và truy vấn của họ nảy sinh từ kinh nghiệm riêng của họ.

Có những câu hỏi mà dường như thích hợp trong ngôn ngữ nhưng là vô nghĩa trong sự tồn tại. Tôi có thể hỏi, “Hương thơm của mầu lục là gì?” Điều này dường như thích hợp trong ngôn ngữ. Nếu người mù được bảo rằng mầu lục là rất đẹp, người đó có thể hỏi bạn mùi nó thế nào, vì kinh nghiệm của người đó về mọi thứ là qua mùi và âm thanh. Câu hỏi của người đó chắc sẽ không thích hợp vì người đó chỉ có thể cố biết các thứ bằng việc nhận diện chúng bằng những thứ đã được biết với người đó. Bạn sẽ nói câu hỏi của người đó là không liên quan. Cái có mầu lục liên quan gì tới mùi vị? Nhưng người này sẽ nói, “Nếu thứ này chẳng có gì liên quan tới mùi vị, nó chẳng liên quan gì tới tôi.” Kinh nghiệm của người đó toàn là qua khứu giác.

Lão Tử nói, “Ngài ở bên ngoài việc hiểu thấu của việc truy tìm của chúng ta vì việc truy tìm nảy sinh từ cái biết. Truy tìm là hữu dụng trong nghiên cứu về cái không biết; nhưng nếu cái không thể biết được là được tìm kiếm, truy tìm là vô dụng. Do đó, truy vấn là cơ sở của triết lí và khoa học nhưng không là cơ sở của tôn giáo.

Ở nước chúng ta, có một từ mới toàn bộ được tạo ra: ‘mumuksha’, như đối lập với ‘jigyasa’ (truy vấn). Từ này là hòn đá tảng của tôn giáo. Chúng ta không hỏi về Thượng đế vì mọi câu hỏi đều tới từ kinh nghiệm riêng của chúng ta còn Ngài ở bên ngoài mọi kinh nghiệm của chúng ta. Do đó, mọi câu hỏi của chúng ta về Ngài là không liên quan. Cho nên chúng ta không hỏi gì về Ngài. Thay vì thế, chúng ta bắt đầu hỏi các câu hỏi về bản thân chúng ta. Do vậy bắt đầu mumuksha.

Hiểu điều này một chút. Một người mù hỏi, “Mầu lục có mùi nào không?” Đây là truy vấn. Nhưng nếu người mù nói, “Tôi không thể thấy, chỉ cho tôi cách hiểu mầu này mà ông đang nói tới để cho tôi có thể biết nó,” thế thì đây là mumuksha. “Mầu lục giống cái gì?” – đây là truy vấn. “Tôi phải thay đổi thế nào để cho tôi có thể thấy mầu lục mà ông nói tới?” đây là mumuksha.

Truy vấn dẫn tới ý nghĩ; mumuksha dẫn tới hệ thống tu luyện. Jigyasa (truy vấn) làm nảy sinh phản xạ; mumuksha cho sinh ra thiền. Người truy vấn lang thang chỉ trong ý nghĩ. Nơi có liên quan tới tôn giáo, mumukshu đạt tới đích đến ở bên ngoài việc hiểu thấu của người truy vấn. Người cố biết chân lí qua thông minh sẽ là sự thất bại. Người đó sẽ không biết gì, vì ý nghĩ làm chúng ta mù. Với người có thể ở trong trạng thái vô ý nghĩ, cái là không thể biết được trở nên biểu lộ ngay lập tức. Người đó thấy nó ở ngay cạnh mình. Thượng đế biểu lộ bên trong và bên ngoài, và ở mọi phía.

 

Từ “Con đường Đạo”, T.3, Ch.10, Đạo vô hình, không nghe được cũng không hiểu thấu được

Để lại một bình luận