Qui tắc của các cái đối lập

Người nhìn sự sống một cách bề ngoài và lấy mức bên ngoài nhất của nó là mọi thứ thì không thấy được hữu dụng của trống rỗng. Những người hạn chế bản thân họ vì lí do một mình, và không đi vào những chiều sâu của ý nghĩ, không thể hiểu thấu sự kiện rằng cái không hiện diện là cái chống đỡ cho sự tồn tại. Những người nghĩ dưới dạng toán học – với họ, cuộc sống dường như khẳng định. Nhưng tính khẳng định của sự sống không thể tồn tại lấy một khoảnh khắc trong việc thiếu vắng của khía cạnh phủ định. Điều này họ không thể thấy được. Chúng ta hãy cố và hiểu điều này bằng cách lấy các ví dụ.

Một trong những lời kinh cơ bản của Lão Tử là ở chỗ sự sống dựa trên qui tắc của các cái đối lập. Sự sống không đối lập các mâu thuẫn của nó. Thay vì thế, nó làm việc trong cộng tác với các phản lực của nó. Bình thường dường như là nếu kẻ thù của bạn chết, bạn sẽ là người hạnh phúc hơn, nhưng bạn có biết rằng với cái chết của kẻ thù của bạn cái gì đó bên trong bạn, cái đã tồn tại toàn bộ do có kẻ thù, cũng chết. Do đó điều thường xảy ra nhiều lần là bạn mất nhiều bởi cái chết của kẻ thù hơn bởi cái chết của người bạn. Sự đối lập của kẻ thù đánh thức các thách thức bên trong bạn, và sự thù địch lẫn nhau cho nảy sinh và nuôi dưỡng những phẩm chất đó bên trong bạn, mà nếu khác đi chắc chúng vẫn còn đang ngủ.

Đó là lí do tại sao Lão Tử đã nói: “Bất kì người bạn nào cũng được, nhưng chọn kẻ thù của ông một cách khôn ngoan.” Bạn bè không ảnh hưởng tới các kiếp sống của chúng ta nhiều như kẻ thù ảnh hưởng vì người bạn có thể thiếu quan tâm nhưng chúng ta không thể đảm đương được việc bỏ quên kẻ thù. Chúng ta có thể quên người bạn nhưng kẻ thù thì không bao giờ bị quên. Tuy nhiên điều không bao giờ bừng lên trên chúng ta là kẻ thù cũng có thể ảnh hưởng tới sự sống của chúng ta. Mahatma Gandhi chắc sẽ không bao giờ trở thành một mahatma nếu mà Ấn Độ đã không thuộc về người Anh. Chính cái đối lập với qui tắc Anh đã mang ông ấy vào hiện hữu.

Người vĩ đại được sinh ra khi đất nước đang trong chao đảo lớn. Chính thảm hoạ làm cho những người vĩ đại được sinh ra, không có điều ngược lại. Giờ khắc thảm hoạ, giờ khắc căng thẳng sinh ra những người vĩ đại. Hitler đã viết, “Không người lãnh đạo nào được sinh ra mà không có xung đột lớn.” Do đó lãnh đạo càng lớn, trận chiến sẽ càng phải lớn. Bạn không thể chỉ tên một người lãnh đạo được sinh ra trong thời bình. Cho nên người ham muốn là người lãnh đạo lớn phải làm thu xếp cho xung đột lớn.

Sự sống làm việc theo luật của các cái đối lập – nơi mâu thuẫn là thấy được và việc cộng tác giữa các cái đối lập thực tại không làm việc. Chúng ta hãy xem xét điều này từ khía cạnh khác để hiểu nó rõ hơn. Nếu chúng ta mà loại bỏ Ravana khỏi thiên sử thi Ramayana, không cái gì sẽ còn lại của thiên sử thi này ngoại trừ Rama; và với một mình ông ấy, sẽ không thể nào xây dựng ra được chuyện kể này. Rama có thể đã tồn tại trên trái đất mà không có Ravana, nhưng thế thì Rama của sử thi này chắc đã mất hút hoàn toàn. Chính thách thức về đối lập với Ravana mang ra sự sôi nổi và sự tự kiềm chế của tính cách của Rama và làm lộ ra sự chói sáng của nhân cách của ông ấy.

Ravana đã có đóng góp lớn hướng tới tán dương Rama. Điều chắc sẽ là không thể cho Rama hay Ravana được sinh ra mà không có nhau. Họ lớn lên với sự hỗ trợ của nhau. Điều này là sự thực, nhưng những người nhìn mọi sự một cách bề ngoài thấy họ là các kẻ thù, đối lập lẫn nhau. Tuy nhiên thực tại sâu lắng của sự sống là ở chỗ họ là các đối tác. Không nhất thiết là bản thân họ phải nhận biết về điều này, nhưng ở bình diện rất tinh tế những người dường như đối lập lại là các đối tác, người chung phần, người cộng tác và bạn bè. Không chỉ sự sống không được hình thành mà không có các cái đối lập mà nó còn không phát triển được nếu không có cái đối lập. Cái đối lập là điều không tránh khỏi.

Freud đã khám phá ra một sự thực vô giá. Ông ấy nói: “Chúng ta cũng ghét những người chúng ta yêu.” Đây là một khám phá gây giật mình ngay với bản thân Freud. Đó là cú đánh khủng khiếp cho toàn nhân loại đặc biệt cho những người yêu. Những người yêu không thể tin được họ có năng lực ghét hướng tới những người họ yêu. Tuy nhiên sự kiện là mọi người yêu đều biết điều này bên trong bản thân họ, mặc dầu họ có thể không thừa nhận điều đó. Do đó, Freud đã bị chống đối trong một thời gian dài. Chung cuộc ông ấy đã không thể bị chứng minh là sai. Dần dần, sự thực được chấp nhận.

Những người chúng ta yêu chúng ta cũng ghét, vì yêu không thể đứng mà không có ghét. Nếu bạn yêu ai đó và bạn phân tích điều đó một cách trung thực, bạn sẽ thấy bản thân bạn yêu và ghét luân phiên. Bạn ghét vào buổi sáng, yêu vào buổi chiều, ghét và buổi tối và lại yêu vào ban đêm. Yêu của chúng ta có tính định kì. Người bạn cãi cọ vào buổi sáng, và đã quyết định không thể nào sống cùng, bạn lại hoà giải và thề bạn sẽ mất nếu không có cô ấy.

Các nhà tiên tri cổ đại về yêu đã tuyên bố rằng yêu là đầy đủ và hoàn hảo chỉ khi không có cãi cọ giữa hai người yêu. Tuy nhiên Freud nói rằng yêu càng lớn, cãi cọ giữa hai người cũng càng lớn. Nếu không có cãi cọ giữa hai người yêu, theo Freud – họ không đang trong yêu; họ chỉ lừa lẫn nhau. Nếu bạn không tranh đấu với vợ bạn (hay chồng), điều đó có nghĩa mối quan hệ của bạn đã tan biến từ lâu trước đây, nhiều tới mức không có nhu cầu cãi cọ gì thêm nữa. Freud không nói về yêu tâm linh. Ông ấy đang nói về điều yêu sẽ diễn ra trong xã hội chúng ta, điều mà nói chung chúng ta vẫn hiểu là yêu.

Trong cái gọi là yêu này mà chúng ta biết, cãi cọ là phần không tránh khỏi. Nhưng những người yêu (và các đôi đã lấy nhau) muốn không có cãi cọ, không xung đột, trong mối quan hệ của họ. Thế thì yêu sẽ là phúc lạc. Nhưng họ không nhận biết về các sự kiện của cuộc sống. Ngày cãi cọ chấm dứt, yêu cũng sẽ chấm dứt. Thực ra, xung đột không thể bị chấm dứt bằng loại yêu chúng ta mê đắm vào. Xung đột tồn tại vì mong đợi – mong đợi lớn. Yêu càng lớn, mong đợi càng lớn. Mong đợi càng lớn, thất vọng càng lớn. Và khi có thất vọng, có xung đột. Nếu không có mong đợi nếu không có đòi hỏi lên người yêu, nếu không có hi vọng ghim lên người kia, mọi xung đột sẽ dừng lại ngay lập tức. Thế thì chúng ta chấp nhận sự sống như nó vậy.

Nhưng Freud nói, “Những người yêu lớn không thể sống trong an bình.” Một nhân vật duy nhất khác của phương Tây, De Sade, đã nói, “Yêu là bệnh.” Ông ấy gọi yêu là bệnh vì chúng ta mời yêu, và thay vào đó thì ghét có đó. Yêu và ghét là hai mặt của cùng một đồng tiền. Do đó, ghét sẽ đi sóng đôi với yêu.

Ghét không thể đứng theo cách riêng của nó. Nếu bạn nghĩ bạn đã ghét với ai đó, bạn lầm vì sự kiện đơn giản là ghét không thể tồn tại một mình. Bạn có thể ghét chỉ với người mà bạn vẫn có yêu chừng mực nào đó. Nếu bạn thử và phân tích cảm giác của bạn về ai đó bạn thực sự ghét, bạn sẽ thấy những sợi dây yêu nào đó buộc một cách không chủ ý bạn với người đó. Nếu mọi dây buộc của yêu bị đứt hết, mọi phương tiện của bạn cũng đã tan biến.

Do đó, chúng ta bị buộc vào cả bạn của chúng ta và thù của chúng ta. Với bạn có yêu bên ngoài và ghét bên trong; với thù có ghét bên ngoài và yêu bên trong. Tuy nhiên dây buộc của chúng ta với cả hai là như nhau.

Điều này có thể là khó hiểu, vì chúng ta có mong đợi lớn về yêu. Chúng ta hãy cố hiểu điều này từ góc độ khác.

Một người làm việc quần quật suốt cả ngày. Bây giờ, theo lập luận của chúng ta, người đã làm việc quần quật cả ngày phải thấy không thể nào thảnh thơi cả đêm. Người thường làm việc cả ngày phải trải qua đêm cũng trong công việc. Tuy nhiên sự kiện là người làm việc quần quật cả ngày ngủ say ban đêm.

Người không cố gắng nỗ lực suốt ngày đáng ra phải thấy không khó khăn gì trong thảnh thơi ban đêm vì kinh nghiệm về thảnh thơi của anh ta suốt ban ngày sẽ là thực hành tốt cho việc ngủ ban đêm. Nhưng người thảnh thơi ban ngày lại khó ngủ ban đêm. Thực tại, người làm việc quần quật cả ngày dài tích luỹ khía cạnh đối lập (thảnh thơi). Người thảnh thơi, tích luỹ cái đối lập của thảnh thơi. Cho nên người thảnh thơi ban ngày lại vất vả ban đêm bởi việc trở mình bên nọ bên kia. Anh ta không thể ngủ được.

Chúng ta không thể thoát được cái đối lập. Cái đối lập bao giờ cũng đứng cạnh. Nếu bạn muốn ngủ ban đêm, bạn sẽ phải nỗ lực ban ngày. Nỗ lực càng lớn, giấc ngủ càng sâu. Cho nên một điều rất thú vị xảy ra: Những người làm viếc rất vất vả, và không có thời gian để thảnh thơi, đạt tới chiều cao của thảnh thơi. Và những người có mọi phương tiện để thảnh thơi – với họ, thảnh thơi là vấn đề gây lo âu. Làm cái gì họ có thể làm, họ vẫn không thể thảnh thơi.

Không may, chúng ta sống theo các chuẩn bên ngoài của mình. Chúng ta nói: chúng tôi phải thảnh thơi ban ngày để biết cách thảnh thơi ban đêm. Đây là logic thẳng và đơn giản. Nhưng nó chẳng liên quan gì tới sự sống. Điều này chính là cùng điều khi chúng ta nói chúng ta phải không có bất kì xung đột nào với những người chúng ta yêu. Nhưng cuộc sống tồn tại trong các cái đối lập – cũng giống như điện tồn tại vì các cực âm và dương của nó. Nếu chúng ta lấy đi cực này, cực kia đồng thời bị mất và không thể có bất kì điện nào.

Nhưng rất khó chấp nhận cái đối lập. Người chấp nhận cái đối lập là sannyasin theo tôi. Lão Tử gọi người như vậy là trí huệ.

Chấp nhận cái đối lập có nghĩa là nếu hôm nay, bạn đã tới và bày tỏ kính trọng với tôi, tôi phải chấp nhận sự kiện rằng ở mức nào đó bên trong bạn, bất kính cũng đang tụ tập hướng tới tôi. Sự kiện này không thể thoát được. Nếu tôi chấp nhận kính trọng của bạn, tôi cũng phải được chuẩn bị để nhận bất kính từ tay bạn vào thời điểm về sau. Nếu tôi chấp nhận việc vâng lời của bạn với hiểu biết đầy đủ về sự kiện này, tôn kính của bạn sẽ không cho tôi vui thích nào. Tương tự, bất kính của bạn sẽ không làm tôi bất hạnh nữa. Sâu bên trong tôn kính của bạn, tôi sẽ phát hiện hạt mầm của bất kính; và sâu bên trong bất kính của bạn, tôi sẽ thấy tia lửa của tôn kính.

Nếu một người ném giầy vào tôi, tại sao người đó phải nhận nhiều phiền phức thế nếu người đó không quan tâm tới tôi? Chắc chắn có kết nối nào đó giữa người đó và tôi ở đâu đó. Giầy anh ta ném vào tôi mang tính diễn đạt nhiều hơn vòng hoa mà người khác đặt quanh cổ tôi. Việc nghiêng người về phía tôi của người này là lớn, trăn trở của anh ta là sắc nhọn. Anh ta nhất định làm cái gì đó này khác cho tôi. Nếu tôi trở nên nhận biết về phiền phức anh ta đang tạo ra cho tôi, khó chịu về bất kính của anh ta sẽ không làm đau tôi. Và nếu tôi trở nên nhận biết về phía bên kia của đồng tiền khi tôi được tôn vinh và kính trọng, ảo tưởng về kính trọng sẽ tan biến. Thế thì kính trọng và bất kính xuất hiện là hai mặt của cùng một đồng tiền. Người mà với người đó điều này trở thành rõ ràng, siêu việt trên cả hai mặt.

Cuộc sống bị ràng buộc bởi các cái đối lập từ mọi hướng. Khi chúng ta thấy mặt này của cuộc sống, chúng ta quên mặt kia. Chính lỗi này là điều không may lớn nhất cho nhân loại. Khi chúng ta nhìn vào một mặt của cuộc sống, chúng ta trở nên quên lãng hoàn toàn mặt kia.

Khi chúng ta nhìn vào hoa, chúng ta không bao giờ liếc nhìn vào gai; khi chúng ta nhìn vào gai, chúng ta quên hoa. Và hoa cùng gai ở trên cùng cây, cùng cành. Chúng được nuôi dưỡng bằng cùng mạch dẫn nhựa, chúng sống động vì có cùng rễ. Cùng người làm vườn tưới nước cho chúng và cùng mặt trời chiếu các tia sáng tới chúng. Chúng tới từ cùng sự tồn tại. Sâu bên dưới, chúng là một. Nhưng khi chúng ta nhìn hoa, chúng ta quên chính sự tồn tại của gai; và càng quên gai, cái đâm của nó càng buốt nhói hơn. Thế rồi, khi gai đâm, hoa tan biến khỏi cái nhìn của chúng ta và chúng ta chỉ nhận biết về cái đau từ gai. Chúng ta thậm chí quên rằng chính là vì hoa mà chúng ta phải chịu đau của gai. Chúng ta tận hưởng hương thơm của hoa và cái đau nhói là kết quả.

Cái nhìn của chúng ta bao giờ cũng bộ phận. Cái nhìn bộ phận là dốt. Cái nhìn bộ phận thì không sai, nhưng nó là không đầy đủ. Nó chỉ thấy một nửa của thực tại. Nửa kia dường như mâu thuẫn tới mức chúng ta không thể tạo quan hệ nửa nọ với nửa kia.

Trên bề mặt của nó, khó mà tạo quan hệ cho các cái đối lập. Bạn không bao giờ có thể tưởng tượng được rằng một người ôm cổ bạn hôm nay và thề rằng bạn là vàng, điều đó có nghĩa là bạn là bất kì cái gì với người đó trên thế giới và cuộc sống sẽ là vô nghĩa nếu không có bạn, sẽ đâm dao vào bạn. Logic cần nhất quán. Nhưng ở đây, không có nhất quán. Làm sao người này có thể giết bạn? Nhưng thực tại của cuộc sống là ở chỗ người đó có thể. Đây là chính chiều sâu của cuộc sống. Người không có quan hệ nào với bạn thì không bận tâm giết bạn. Người đó không quan tâm tới bạn. Bạn có thể làm cho ai đó thành kẻ thù mà trước hết không làm cho người đó thành bạn của bạn được không? Cũng vậy, người trở thành kẻ thù không đội trời chung của bạn không thể chỉ là quen biết sơ sơ. Tỉ lệ là như nhau: tình bạn càng lớn, thù địch càng lớn. Machiavelli, trong cuốn sách của mình Hoàng tử, đã viết, “Thân thiết càng lớn, ông càng phải thận trọng với bạn của ông.” Đây là lời khuyên tinh ranh, nhưng nó có sự thực nào đó trong nó. Tình bạn càng dầy, chúng ta càng phải thận trọng hơn vì nguy hiểm là lớn hơn. Machiavelli nói, “Nếu ông không muốn kẻ thù của ông biết các sự kiện, chú ý rằng bạn của ông không biết chúng.” Ông ấy cũng nói, “Không đối xử với kẻ thù của ông theo cách ông có thể hối tiếc một ngày nào đó khi người đó trở thành bạn của ông, vì kẻ thù có thể trở thành bạn bất kì ngày nào.”

Cuộc sống thay đổi mọi khoảnh khắc. Không cái gì ổn định. Cuộc sống đung đưa từ cực đoan này sang cực đoan khác. Các cái đối lập được thống nhất trong chiều sâu sâu lắng của sự tồn tại; nhưng trên bề mặt chúng là tách rời. Người chỉ thấy bề mặt của cuộc sống không thể hiểu được Lão Tử vì ông ấy nói về tính cực tối thượng của sự tồn tại.

Lão Tử nói: “Ba chục căm, hợp lại một bầu, nhưng nhờ chỗ không, mới có cái dụng của xe.” Nhìn bánh xe và bạn sẽ thấy rằng chính nhờ cái trục xe mà toàn thể chuyển động của xe phụ thuộc vào. Ở trung tâm rỗng có cái trục, và điều đáng ngạc nhiên là ở chỗ toàn thể chuyển động nhưng cái trục lại tĩnh tại. Nó bất động. Cái trục càng cố định, chuyển động của bánh xe càng dễ dàng. Đây là luật của các cái đối lập. Không gian rỗng nơi ống được cố định là trung tâm của mọi chuyển động. Đây là bí mật của nó. Bánh xe không thể chuyển động mà không có trung tâm rỗng này. Điều này ngụ ý rằng nơi chúng ta thấy mọi thứ được bão hoà, vững chắc, có rỗng sâu bên trong các chiều sâu của chúng nữa. Chúng ta hãy hiểu điều này một chút.

Nếu bạn mà gặp Phật bên vệ đường với bình bát ăn xin, ông ấy chắc sẽ dường như là rỗng tuyệt đối – mất mọi thứ. Ông ấy không có của cải, không địa vị, không cung điện, không vinh quang. Giá mà bạn gặp ông ấy sớm hơn một chút, ông ấy đã có mọi thứ này. Nhưng khi ông ấy đã có mọi thứ này, Phật đã cảm thấy rằng, mặc cho các thứ này, ông ấy đã là rỗng bên trong. Không có gì trong thế giới bên ngoài mà không là của ông ấy để hỏi xin – bánh xe đã đầy đủ hoàn toàn – nhưng cái trục là rỗng. Và ông ấy đã cảm thấy: hữu dụng gì ở tính đầy bên ngoài này nếu ông ấy đã cảm thấy nghèo và rỗng thế bên trong? Cho nên ông ấy đã từ bỏ mọi thứ. Một ngày nào đó, ông ấy đã đi ra khỏi cung điện của mình và đã trở thành người ăn xin trên đường.

Bây giờ, khi bạn gặp ông ấy như Phật, người ăn xin, bên ngoài là rỗng nhưng bên trong là đầy. Toàn thể quan niệm về từ bỏ được dựa trên sự kiện này. Bí mật này đã được hiểu từ lâu trước đây: rằng nếu bạn bị mê mải với việc tích luỹ của cải bên ngoài, bạn sẽ vẫn còn rỗng bên trong. Với mọi thứ bạn đã thu được ở bên ngoài, có rỗng không tránh khỏi bên trong. Nếu bạn muốn là đầy bên trong, bạn phải được chuẩn bị để là rỗng bên ngoài, vì cả hai không thể xảy ra đồng thời. Nếu bạn muốn là đầy bên trong và đầy bên ngoài, điều đó là không thể được vì cuộc sống làm việc theo luật của các cái đối lập. Bạn phải hiểu tính cực này.

Nếu bạn muốn được đầy với Thượng đế bên trong, bạn phải từ bỏ ý tưởng về chất đầy bản thân bạn bằng của cải vật chất. Bạn phải buông bỏ mọi bám víu với các thứ bên ngoài. Chỉ thế thì việc chất đầy bắt đầu ở bên trong nhưng thế thì, bên ngoài, rỗng sẽ lan rộng.

Một vua tới Phật và hỏi, “Anh có được mọi thứ mà một người có thể ham muốn. Tại sao anh đã bỏ cung điện và ra đi? Đôi khi trong trung tâm căng thẳng, người ta có xu hướng làm quyết định thiếu suy nghĩ. Nhưng đừng lo nghĩ, bố anh là bạn tốt của ta, ông ấy sẽ nghe ta và đưa anh trở lại. Và nếu, vì lí do nào đó, anh cảm thấy anh không chịu ơn của bất kì ai, ta có con gái. Anh có thể cưới nó và là chủ của mọi thứ ta sở hữu, vì ta không có con trai.”

Ông vua này không bao giờ nhìn Phật một lần khi ông ta nêu ra đề nghị dài. Ông ta chắc đã thấy Phật cười. Khi cuối cùng ông ta nhìn lên và hỏi, “Anh phải nói cái gì chứ?” Phật mỉm cười và nói, “Bệ hạ nghĩ tôi không có tài sản. Tôi nghĩ bệ hạ không có gì. Bệ hạ là đúng và tôi cũng vậy. Duy nhất, cách nghĩ của chúng ta là khác. Bệ hạ có mọi thứ bên ngoài bệ hạ và tôi chẳng có gì quanh tôi. Chính điều tự nhiên là bệ hạ phải thương hại tôi và cố giúp tôi trở về với giầu có của tôi. Nhưng tôi thấy bản thân tôi được chất đầy bên trong, trong khi tôi thấy chẳng có gì bên trong bệ hạ.” Phật nói thêm với ông ta, “Tôi đã biết cả hai loại giầu có. Điều bệ hạ đề nghị thì không là gì khi so với điều tôi đã bỏ lại đằng sau. Và tôi nói với bệ hạ, nhà vua, tôi bây giờ sở hữu mọi thứ. Trước đây, tôi đã chẳng có gì. Bệ hạ chỉ có một trải nghiệm, về giầu có mà bệ hạ coi là mọi thứ. Nghe tôi đi. Bây giờ biết trải nghiệm kia. Cầm bình bát này và đi vào tính sannyas.”

 

Có phản đề, tính chất trái ngược lại ở mọi nơi. Cho nên Lão Tử nói: “Ba chục căm, hợp lại một bầu, nhưng nhờ chỗ không, mới có cái dụng của xe.

Chúng ta không thể thấy cái rỗng này. Rỗng ngụ ý cái không thể được thấy. Cái thấy được bao giờ cũng tuỳ thuộc vào cái không thấy được. Tính cực này vẫn còn ở mọi nơi: cái thấy được tuỳ thuộc vào cái không thấy được, thế giới được sinh ra từ im lặng, sự sống tồn tại vì chết. Nhưng phía bên kia là không thấy được mãi mãi.

 

Từ “Con đường Đạo”, T.3, Ch.5 Vô tồn tại và trống rỗng là hỗ trợ của mọi thứ

Để lại một bình luận