Thượng đế – Tự do – Bình đẳng – Công lí

Câu hỏi thông thường đã từng được hỏi qua nhiều thời đại là nếu Thượng đế hiện hữu, và nếu mọi thứ xảy ra theo ý chí của Ngài, thế thì tại sao ngài cho phép kẻ cắp ăn cắp, hay kẻ giết người giết người, hay lừa gạt để lừa dối? Và khi người yếu bị người mạnh làm cho khổ, tại sao Ngài đơn thuần đứng nhìn? Câu hỏi này là nhất quán và xứng đáng nhận ra. Người thông minh đã hỏi điều này lặp đi lặp lại. Thực tại, hoài nghi lớn nhất trong tâm trí của người thông minh và sự tồn tại của Thượng được gây ra bởi câu hỏi này.

Bertrand Russell hỏi, “Nếu Thượng đế tồn tại, làm sao Ngài có thể cho phép đứa trẻ được sinh ra đã bị mù hay bị què hay bị ung thư? Nếu Thượng đế hiện hữu, làm sao điều này xảy ra? Và bạn nói Ngài là người làm mọi thứ!” Địa ngục mà chúng ta chứng kiến ngày nay trong cuộc sống làm cho chúng ta hoài nghi liệu Thượng đế có thực sự hiện hữu không. Nếu có Thượng đế, Ngài chẳng xứng được gọi là quỉ Satan sao, khi thấy cuộc sống như nó vậy? Câu hỏi này là rất nhất quán với sự kiện: nếu Thượng đế hiện hữu, tại sao có điều ác trong thế giới này?

Một người bạn Hồi giáo tới thăm tôi. Đây cũng đã là câu hỏi của anh ta nữa. Anh ta nói, “Câu hỏi lớn nhất tôi cảm thấy là ở chỗ nếu Thượng đế hiện hữu, thế thì tại sao thế giới có nhiều điều ác thế?” Anh ta là đúng, vì không thể có quan hệ giữa Thượng đế và điều ác. Làm sao có thể có được?

Tôi bảo anh ta, “Chúng ta hãy bỏ mọi quỉ khỏi thế giới một chốc đi. Thế thì bạn có thể hình dung thế giới sẽ giống cái gì không?” Khoảnh khắc bạn loại bỏ điều ác, điều thiện cũng biến mất khỏi khung cảnh. Thiện không thể tồn tại theo cách riêng của nó. Chính bởi vì ác mà thiện tồn tại. Bỏ tối và sáng biến mất cùng với nó. Sáng tồn tại vì tối. Bỏ lạnh, và nóng tự động mất. Nóng và lạnh là các biến thiên khác nhau của cùng một điều. Nếu chúng ta cố bỏ chết, sống nữa sẽ bị mất. Nếu không có chết, làm sao sống có thể hiện hữu? Hay, nếu không có sống, làm sao có thể có chết?

Vũ trụ tồn tại với sự giúp đỡ của các cái đối lập cực. Sự tồn tại của thế giới được mang tới bởi âm nhạc giữa những cái đối lập. Nếu cái đối lập bị bỏ đi, cả hai bị bỏ đi. Bỏ đực, và cái bị mất. Bỏ tuổi già và tuổi trẻ bị mất. Người trẻ bao giờ cũng ước ao kéo dài tuổi thanh xuân của mình vì người đó không biết rằng tuổi trẻ và tuổi già được phối hợp chặt chẽ tới mức nếu cái này bị bỏ đi, cái kia bị mất theo. Tất cả chúng ta đều ao ước cái xấu bị loại bỏ khỏi thế giới; nhưng nếu cái xấu bị mất, cái đẹp cũng sẽ biến mất. Nếu bạn ước ao một thế giới không có xấu, được chuẩn bị để đối diện với một thế giới nơi không cái gì là đẹp.

Tôi bảo bạn tôi, “Nếu bạn ao ước về một thế giới mà cái ác bị cấm, cái thiện sẽ chạy trốn khỏi chỗ như vậy ngay lập tức. Thế thì thế giới này sẽ là nhà tù lớn; vì nơi không có tự do để làm điều ác, không thể có tự do chút nào.

Thực ra, từ “tự do” chứa tự do làm điều ác nữa. Nếu một người được bảo rằng anh ta là tự do chỉ là thiện, tự do như vậy truyền đạt nghĩa gì? Tự do này không có nghĩa. Thay vì thế, nó ngụ ý lệ thuộc. Nói thế này chắc sẽ là đúng hơn; bạn bị kết án để là thiện – không tự do là thiện. Khi chúng ta bảo một người anh ta là tự do để là thiện, tự do để là ác đi vào cùng với tự do là thiện. Thượng đế là tính toàn bộ và vậy mà ngài không kiểm soát bất kì cái gì. Điều này ngụ ý rằng Thượng đế sáng tạo, nhưng Ngài sáng tạo tự do.

Người được tự do để là tốt và tự do để là xấu – xấu như người đó muốn – khi Thượng đế là chúa tể của mọi thứ. Điều này là vì tự do thực chỉ tồn tại nếu có tự do để làm điều người ta muốn, dù đó là tốt hay xấu. Khi không có tự do như vậy, người không phải là người mà là máy làm bất kì cái gì mà nó được làm ra để làm việc đó vì nó là vô tri vô giác.

Người có tri giác; người sở hữu ý thức. Ý thức là không thể được nếu không có tự do. Lão Tử nói: Ngài là Đấng sáng tạo, nhưng không là người kiểm soát. Ngài đã không tạo ra nhà tù cho chúng ta, nơi Ngài đứng gác ở cổng.

Những người như Bertrand Russell nói rằng chính lí do này tạo ra hoài nghi về sự tồn tại của Ngài. Nhưng tôi nói, chính vì lí do này mà Thượng đế hiện hữu. Nơi tự do không có, Thượng đế không thể hiện hữu. Tự do là chính bằng chứng về sự tồn tại của Thượng đế. Ngài hiện hữu, vì chúng ta được tự do hoàn toàn thế. Ngài hiện hữu! Bạn có thể so sánh sự tồn tại của Thượng đế với ví dụ về đại dương và cá sống trong đó. Cá không nhận biết về đại dương nhưng chính sự tồn tại của chúng là vì có đại dương. Cũng vậy các kiếp sống của chúng ta trở thành địa ngục thực. Thế thì chúng ta quay lại và nói, “Cảnh nô lệ là tốt hơn, vì thế thì chúng ta đã hạnh phúc.” Tự do bao giờ cũng thấy chúng ta đi xuống.

Chúng ta tìm kiếm sự nô lệ theo đủ mọi cách. Và cách chúng ta tìm kiếm nó thì thực sự đáng kinh ngạc! Erich Fromm đã viết một cuốn sách duy nhất, Thoát khỏi tự do. Fromm nói rằng từng người đều ao ước thoát khỏi tự do. Bất kì khi nào người tìm thấy tự do, anh ta nhanh chóng tìm thấy sự nô lệ và ẩn bản thân mình đằng sau nó. Sự nô lệ này không thể được phát hiện dễ dàng bởi thói quen của chúng ta hiếm khi là lâu tới mức chúng ta không thể phân biệt được nô lệ với tự do.

Nếu một người khởi hành đi tìm chân lí, người đó không đi thẳng vào việc tìm nó mà bắt đầu lật các trang kinh sách shastras. Hầu như như người đó không biết rằng đây là sự nô lệ. Người đó ao ước vay mượn ngay cả chân lí – người đó muốn ai đó trao nó cho người đó.

Nếu một người muốn biết chân lí, tự bản thân người đó không khởi hành đi khám phá nó; người đó đi và sụp xuống dưới chân một thầy mà nói, “Thầy là mọi thứ của tôi. Cho tôi tri thức về chân lí. Làm sao tôi, kẻ tội nhân, có thể làm được bất kì cái gì?” Người đó gần như không biết rằng mọi tội của người đó đều là việc làm riêng của người đó. Nhiều lao động vất vả và nỗ lực được cần để trở thành tội nhân. Người đó thú nhận năng lực của mình để phạm tội bằng việc nói người đó là tội nhân. Đồng thời người đó nói, “Làm sao kẻ tội nhân có thể làm được bất kì cái gì để thu được hiểu biết về chân lí?” Thực tại, người đó đang đi xin được cứu khỏi tự do của người đó. Người đó đang yêu cầu thầy này trở thành cai tù của mình để cho ngày mai, người đó thấy bản thân mình trong địa ngục, người đó có thể đổ trách nhiệm lên thầy này. Và nếu người đó đạt tới cõi trời, người đó bao giờ cũng có thể tuyên bố công trạng vì đã chọn thầy này. Do vậy, người đó bám lấy kinh sách, và bám lấy các thầy.

Những người như Hitler, Mao và Stalin không được sinh ra một cách ngẫu nhiên. Họ được sinh ra chỉ khi toàn thể đất nước ham muốn bị làm thành nô lệ. Từng người đều hăm hở ao ước về một người có thể đứng lên và nói, “Tôi biết cái gì là đúng, Đi theo tôi!” – để cho họ có thể đi theo người đó. Họ muốn được bảo cho rõ ràng điều phải làm và điều không làm. Đây là lí do tại sao chúng ta theo sau các chính khách và các sadhu và các mahatma. Và những người mà chúng ta hỏi, – họ nữa đã hỏi những người khác. Họ không có hiểu biết trực tiếp của riêng họ; họ nữa cũng không biết cái gì là đúng và cái gì là sai. Sự kiện là, khi có những người để hỏi, thầy giáo trở thành sẵn có.

Chúng ta hăm hở đặt gánh nặng của mình lên người khác. Tự do dường như là quá nặng với vai của chúng ta. Thực tại đó là cách đi đường khác: tự do phải cho chúng ta đôi cánh để bay trên trời.

Tự do dường như rất gây cản trở, vì chúng ta không biết phải làm gì với nó. Có một thiền sư tên là Năng Nhẫn. Một hôm ông ấy ở lại muộn trong đạo tràng của thầy ông ấy. Ông ấy hỏi mượn thầy chiếc đèn vì trời quá tối và ông ấy phải đi xa. Thầy đưa cho ông ấy chiếc đèn nhưng ngay khi ông ấy bắt đầu bước xuống các bậc cửa, thầy giằng lấy và thổi tắt chiếc đèn. Năng Nhẫn ngạc nhiên. “Thầy đùa kiểu gì vậy?” ông ấy hỏi.

Thầy đáp, “Không đáng tìm con đường của ông bằng ánh sáng của người khác. Tối riêng của ông là tốt hơn nhiều so với sáng của ai đó khác. Đi đi, tìm trong tối riêng của ông, để cho đèn bên trong ông có thể trở nên được thắp sáng. Ông càng tìm, ông càng sẽ được lau sạch. Ông sẽ ngã, ông sẽ va vào mọi thứ, chi của ông có thể bị gãy, nhưng bên cạnh đó ông sẽ khám phá ra hồn của ông. Do đó, ta đã thổi tắt đèn.”

Năng Nhẫn đã viết trong tự truyện của mình rằng ông ấy không bao giờ có khả năng quên người này, người đã giằng lấy chiếc đèn khỏi tay ông ấy và thổi tắt nó. Thầy đã là người đẩy ông ấy vào tối và chuẩn bị cho chiếc đèn bên trong cháy. “Hôm nay,” ông ấy nói, “khi ta nhìn ngọn lửa bùng cháy bên trong, đầu ta cúi xuống trong tôn kính và biết ơn người này, người đã làm cho nó được thắp sáng.”

Đây là tự do. Rất dễ để Thượng đế đặt ánh sáng vào tay bạn, nhưng bạn chỉ có thể sống như sâu bọ với sự giúp đỡ của ánh sáng như vậy. Bạn sẽ không bao giờ ngã, không bao giờ đi lạc lối. Sẽ không có địa ngục; bạn sẽ đi thẳng lên cõi trời. Nhưng cõi trời có được bằng sự giúp đỡ của người khác là tồi hơn là địa ngục, vì cõi trời như vậy là sự lệ thuộc. Điều may mắn tốt lành mà không hoàn toàn của riêng người ta, mà đã không được tìm kiếm và được đạt tới và được trải nghiệm bởi nỗ lực riêng của người ta là tồi hơn điều không may. Do đó Lão Tử nói: “Đạo sinh ra mọi thứ nhưng không kiểm soát cái gì. Nó không cho hướng dẫn. Nó đã cho chúng ta sức mạnh và phương tiện để bước đi nhưng nó không nói, “Bước đi như thế này.” Sức mạnh để bước đi thuộc về Đạo; không gian, con đường, tối, sáng, chính người bước đi là Đạo; và vậy mà Đạo không chỉ huy: “đi sang phải, đi sang trái.”

Đạo cho chúng ta cuộc sống, nhưng nó làm tự do thành chính cơ sở của cuộc sống. Tự do này có thể trở thành nỗi đau của cuộc sống hay thành lòng nhân từ của cuộc sống; chọn lựa toàn bộ là của chúng ta. Tự do này có thể làm cho cái nằm ẩn bên trong được lộ ra. Tự do này cũng có thể được dùng để tạo ra tối riêng của chúng ta, âm ti riêng của chúng ta nơi chúng ta có thể mục nát và suy tàn và bị phá huỷ. Tuy nhiên một điều là chắc chắn: rằng có tự do hoàn hảo trên thế giới. Tự do hoàn hảo này là tuyên bố không được công nhận về sự tồn tại của Thượng đế. Đây là tuyên bố im lặng của Ngài về “Ta hiện hữu”.

Nhưng chúng ta vô nhận biết toàn bộ về tự do này. Chúng ta sợ, vì tự do ngụ ý trách nhiệm. Nó ngụ ý rằng tôi là người duy nhất chịu trách nhiệm cho mọi hành động của tôi. Nếu tôi thấy bản thân tôi trong địa ngục, tôi không có ai để trách móc ngoài bản thân tôi.

Trách nhiệm này làm chúng ta bối rối và hoang mang, cho nên chúng ta cố đổ nó lên lẫn nhau. Chồng đổ trách nhiệm lên vợ, vợ đổ lên chồng, và do vậy cả hai xoá tội cho bản thân mình, coi người khác chịu trách nhiệm. Họ không có ý thức chút nào về trò chơi họ chơi.

Eric Berne đã viết một cuốn sách Trò chơi mọi người chơi. Trong cuốn sách này ông ấy mô tả gần như mọi trò chơi mà con người chơi lẫn với nhau. Hành động đổ trách nhiệm này lên lẫn nhau cũng là trò chơi. Phần buồn cười là ở chỗ người mà chúng ta đổ trách nhiệm lên, lại đổ cùng trách nhiệm lên chúng ta. Người không thể chịu trách nhiệm cho bản thân mình, làm sao người đó có thể được mong đợi gánh vác trách nhiệm cho người khác?

Không may, cả người đó lẫn bạn đều nhận biết về sự kiện rằng các bạn đã đổ trách nhiệm của các bạn lên lẫn nhau. Và như vậy, chúng ta trách lẫn nhau trong suốt cuộc đời, mà không biết rằng cả hai chúng ta đều là kẻ ăn xin, đang cầm bình bát chìa ra cho nhau. Từng người đều xin xỏ người kia, và chẳng ai có thể cho!

Tự do là đáng sợ, cho nên chúng ta cố tìm loại nô lệ nào đó. Cái gọi là Thượng đế của chúng ta [không phải là Đạo mà Lão Tử nói tới] cũng là sự lệ thuộc. Chúng ta đặt bổn phận lên Ngài. Chúng ta nói, “Chúng con ở trong tay ngài. Xin chăm nom cho chúng con!” Do đó, khi một người hạnh phúc, người đó không bao giờ nghĩ tới Thượng đế; nhưng khi người đó bất hạnh, người đó bao giờ cũng nghĩ tới Thượng đế. Người đó không muốn chịu trách nhiệm cho bất hạnh riêng của mình. Người đó chỉ được chuẩn bị để có trách nhiệm cho vận may của mình. Người đó thích cảm thấy và tin điều đó một cách toàn bộ vì người đó. Nhưng khi ngày rủi xảy ra cho người đó, người đó nhìn lên trời và kêu khóc, “Làm sao con có thể bị khổ thế khi ngài có đó? Hiện hữu của ngài hữu dụng gì nếu con khổ thế? Hoặc ngài xua đuổi những đau buồn của con và cho con bằng chứng về sự tồn tại của ngài hoặc con sẽ không tin ngài đâu.”

Một người tới tôi và nói, “Tôi có đức tin đầy đủ vào Thượng đế. Tôi đã cầu nguyện với Ngài rằng nếu con trai tôi mà không có được việc làm trong vòng mười lăm ngày tôi sẽ không bao giờ có đức tin vào Ngài. Và, trong vòng mười lăm ngày, con trai tôi đã có việc làm!”

Tôi bảo ông ta, “Thượng đế đã làm mặc cả tồi với bạn. Đừng bao giờ thử Ngài lần nữa theo cách này bằng không bạn sẽ bị thất vọng.

Anh ta là người cứng rắn trong niềm tin của mình. Anh ta nói, “Giờ tôi đã bị thuyết phục rằng Ngài hiện hữu!”

Tôi nói với ông ta, “Chính việc tin chắc này sẽ đưa bạn và Thượng đế của bạn vào phiền phức một ngày nào đó. Con trai bạn có việc làm là sự trùng hợp đơn thuần. Đừng lấy làm tự hào cho bản thân bạn rằng Thượng đế rất chú ý để làm cho con bạn có việc làm. Theo cách này, bạn chứng minh bản thân bạn và con trai bạn là có ý nghĩa nhiều hơn Thượng đế. Thậm chí việc làm của con bạn là quan trọng hơn Thượng đế; Thượng đế đã chứng minh bản thân ngài là người phục vụ của bạn. Đừng đòi hỏi Ngài về những điều như vậy lần nữa. Trùng hợp ngẫu nhiên như vậy không bao giờ được lặp lại đâu.

Sau hai tháng, quí ông này trở lại. Ông ta nói, “Ông đã thốt ra những lời gì vậy? Mọi thứ bây giờ lẫn lộn hết rồi. Bốn lần tôi đã cố đạt tới ân huệ của Thượng đế, và cả bốn lần Ngài đã quên tôi rồi. Thượng đế đã quay lưng Ngài lại tôi!”

Tôi bảo ông ta, “Thượng đế đã không quay lưng lại ông đâu. Ngài cũng không quay mặt vào ông. Ngài không có mặt và không có lưng, mà lời cầu nguyện của ông, yêu cầu của ông, sự khăng khăng của ông, khẩn khoản của ông, chẳng có kết quả gì. Điều là quí giá và có nghĩa là cái ngã riêng của ông.”

Giá trị của bạn, nghĩa của bạn, tuỳ thuộc vào mức độ theo đó bạn tạo ra việc dùng sáng tạo tự do của bạn. Giá trị của bạn tuỳ thuộc vào việc dùng đúng tự do của bạn. Chính nghĩa của hệ thống tu luyện là thế này: Dùng sáng tạo tự do của bạn.

Hệ thống tu luyện nghĩa là việc dùng sáng tạo tự do của bạn. Người trần tục là người dùng tự do của mình một cách phá huỷ. Người đó đang dẫn tới việc phá huỷ riêng của mình. Người đó làm tự do của mình thành chướng ngại cho sức sống nhiệt tình riêng của mình và là công cụ trong việc tạo ra giá treo cổ riêng của mình.

Chúng ta không nhớ Thượng đế trong hạnh phúc, nhưng chúng ta nhớ Ngài trong bất hạnh của mình vì thế thì chúng ta muốn đẩy trách nhiệm ra khỏi đôi vai chúng ta. Russell đã viết, “Tôi sẽ chỉ tin rằng Thượng đế thực sự hiện hữu khi không có buồn trên thế gian.” Russell là đúng khi có liên quan tới thuyết hữu thần. Thuyết hữu thần của chúng ta sẽ phai mờ đi nếu không có buồn trên thế gian. Nghĩ một chút: Người nào nhớ tới Thượng đế nếu không có buồn trên thế gian? Chuông đền chùa còn ngân vang không? Thế rồi nến có cháy trong nhà thờ không? Lời gọi của thầy tu báo giờ có rót đầy không khí buổi sáng không? Những lời cầu nguyện này, những lời khẩn cầu này, việc tôn thờ này, những những đồ cúng lửa này – qua tất cả những điều này, nỗi buồn của chúng ta than khóc. Và cái ngớ ngẩn của nó tất cả đều ở chỗ chẳng đền chùa chẳng nhà thờ hồi giáo nào có thể xoá đi nỗi buồn của chúng ta, vì chính chúng ta tạo ra ra chúng và một mình chúng ta có thể phá huỷ chúng. Buồn là việc dùng sai do chúng ta tạo ra từ tự do của chúng ta. Nhưng chính là từ tự do này mà chúng ta muốn cứu bản thân chúng ta khỏi buồn.

Thực sự, liệu ý nghĩ về Thượng đế đã bao giờ đi vào tâm trí chúng ta không nếu không có buồn trên thế gian? Nó có thể nảy sinh thế nào? Thượng đế giống như thuốc cho mọi bệnh. Nếu không có bệnh, ai ngoài người điên sẽ nghĩ tới việc dùng thuốc? Thượng đế giống như thuốc với chúng ta. Chúng ta dùng Ngài để chữa cho bệnh của chúng ta. Khi có buồn, chúng ta nghĩ tới thuốc mang tên Ngài; khi có hạnh phúc, chúng ta vứt chai thuốc này vào sọt rác.

Chúng ta nghĩ về Ngài chỉ trong buồn, vì chúng ta muốn đặt trách nhiệm về bệnh của chúng ta lên vai Ngài. Nhưng bạn không thể đặt bất kì trách nhiệm nào lên vai Thượng đế vì Thượng đế không trói buộc bạn. Bạn là tự do, độc lập. Không có ai trên thế gian này là người chủ trương tự do lớn hơn Thượng đế.

Tự do Ngài trao cho trên sáng tạo của Ngài là sâu lắng tới mức chúng ta thấy nhiều khác biệt thế khắp xung quanh chúng ta.

Người xã hội chủ nghĩa và người cộng sản, người bao giờ cũng phê bình Thượng đế, bao giờ cũng đưa ra luận cứ này: rằng nếu có Thượng đế, thế thì tại sao có mọi bất bình đẳng này? Luận cứ của họ dường như đúng trên bề mặt của nó vì họ không nhận phiền phức để nghĩ. Tuy nhiên, nhớ rằng tự do và bình đẳng là các điều kiện đối lập. Nếu bạn ham muốn bình đẳng, bạn không thể có tự do; nếu bạn ham muốn tự do bạn không thể có bình đẳng. Mọi người có thể được làm cho bình đẳng, nhưng thế thì mọi người sẽ phải là nô lệ. Bình đẳng chỉ có thể tồn tại trong nhà tù. Ngay cả trong nhà tù, nếu có tình trạng lỏng lẻo nào đó, bất bình đẳng bò vào. Sự nghiêm ngặt nhất được yêu cầu để duy trình tính bình đẳng.

Bình đẳng hoàn toàn là có thể chỉ trong phụ thuộc hoàn toàn. Do đó, nếu chủ nghĩa cộng sản thành công, toàn thế giới sẽ là một nhà tù lớn. Nếu chủ nghĩa cộng sản không thành công hoàn toàn, nó không thể là chủ nghĩa cộng sản.

Tự do ngụ ý rằng từng người có tự do để là điều người đó muốn là. Thế thì, bất bình đẳng nhất định có đó. Thế thì bất bình đẳng là không thể tránh được. Nếu bình đẳng được dự định để được duy trì, từng người sẽ phải bị cưỡng bức tuân thủ theo mức độ bình đẳng được chấp nhận.

Sự phát triển thú vị khác đi theo sau tính bình đẳng là ở chỗ mức độ ý thức rơi xuống tương ứng theo mức độ bình đẳng trong xã hội. Tính bình đẳng càng lớn, bình diện ý thức sẽ càng thấp. Giả sử có một lớp ba mươi học sinh. Cậu bé đứng thứ mười ba trong lớp không thể được làm cho đạt tới đứng thứ nhất; nhưng để duy trì tính bình đẳng, cậu bé thứ nhất có thể bị ép buộc đi xuống mức thứ mười ba. Tính bình đẳng thực tại chỉ có thể được duy trì ở mức này vì đứa ở mức thấp nhất không bao giờ có thể được kéo lên điểm cao nhất, trong khi đứa cao nhất có thể bị cản trở và bị làm cho đi xuống. Giống như thế, không dễ mang mọi bệnh nhân trong bệnh viện trở lại sức khoẻ tốt, nhưng rất dễ làm cho người mạnh khoẻ bị ốm. Kéo lại bao giờ cũng dễ hơn; nâng cao lên bao giờ cũng khó. Do đó, tính bình đẳng càng lớn, bình diện thông minh sẽ càng thấp; và tự do càng lớn, khả năng của thông minh chạm tới các đỉnh ý thức cũng càng lớn hơn.

Nhớ, tự do ngụ ý rằng người muốn đạt tới đỉnh sẽ đạt tới, và người không muốn đạt tới sẽ không đạt tới. Anh ta được tự do để vẫn còn ở chỗ anh ta đã ở nếu anh ta ước là vậy, và anh ta tự do để đảm nhận cuộc hành trình dài – lần nữa, nếu anh ta ước là vậy. Cho nên với những người như Marx người phủ nhận sự hiện diện của Thượng đế trên nền tảng tính bình đẳng, tôi nói rằng đây là một trong nhiều bằng chứng về sự tồn tại của Thượng đế: rằng có nhiều bất bình đẳng và chênh lệch thế trên thế giới vì tự do đầy đủ mà Ngài đã ban cho chúng ta.

Mọi người thường làm hoá đơn cho tính bình đẳng và tự do ngay lập tức. Không chỉ điều này, ở Pháp họ đã đi thêm một bước và hô khẩu hiệu: “Công lí, Tự do, Bình đẳng!” Điều này là không lành mạnh hoàn toàn, nhưng chúng ta không nhận biết về nó vì chúng ta bị say mê thế bởi những lời lừa bịp. Chúng ta không bao giờ cố điều tra sâu, nhưng đơn giản được mang đi bởi những lời ma thuật. Nếu có bình đẳng, không thể có tự do; và nếu có tự do, bình đẳng là không thể được. Và nếu bạn muốn công lí, bạn sẽ phải chọn giữa hai điều này.

Thế rồi nữa, nếu bạn chọn tự do, công lí của bạn sẽ khác toàn bộ; và nếu bạn chọn bình đẳng, công lí của bạn sẽ khác toàn bộ. Nếu bạn chọn bình đẳng, thế thì nỗ lực để là khác biệt sẽ được gọi là tội ác. Nếu bạn chọn tự do, chính nỗ lực này sẽ mang định mệnh là hành động đúng và phải. Nếu bạn chọn bình đẳng, chính luật pháp giữ từng người bị giới hạn; và nếu bạn chọn tự do, việc khuyến khích người ta là khác biệt sẽ được coi là hợp pháp. Sẽ là bất công và phi luật pháp nếu cản trở hay gây chướng ngại cho người ta trở thành bất thường và khác biệt.

Mọi điều này là rất khó giải quyết. Tự do và bình đẳng là những vấn đề rất quan trọng.

Cho nên, Marx đã phủ nhận Thượng đế. Ông ấy hầu như chẳng liên quan gì với Thượng đế. Đúng hơn là, ông ấy đã không hữu dụng gì cho Ngài. Nhưng một điều là rõ ràng với ông ấy: Nếu Thượng đế tồn tại, tự do không thể bị phá huỷ. Thế thì bất bình đẳng nhất định còn lại. Cho nên nếu bất bình đẳng cần bị phá huỷ, chúng ta sẽ phải phá huỷ chính triết lí về sự tồn tại của Thượng đế. Do vậy không phải là không có lí do rằng chủ nghĩa cộng sản là vô thần. Một người không thể là người cộng sản mà vẫn tin vào Thượng đế. Người đó phải là người vô thần, vì chính nghĩa của Thượng đế là tự do – không kiểm soát.

Điều Lão Tử đã nói đã tồn tại từ 2500 năm trước Marx. Độc lập và tự do chỉ có thể có trong việc thiếu vắng kiểm soát. Chỉ khi có tự do mới có khả năng phát triển. Nhưng thế thì trách nhiệm còn lại với chúng ta. Nếu chúng ta ao ước né tránh nó, chúng ta sẽ phải tìm phương tiện gây lệ thuộc và nô lệ nào đó. Nếu chúng ta không làm Thượng đế hay thầy thành chủ của chúng ta, chúng ta sẽ làm cho quốc gia thành chủ của chúng ta. Điều đó không tạo ra khác biệt. Để cho người quyết chí quấn dây cương quanh cổ chúng ta. Chúng ta sẵn sàng tuân theo. Tự bản thân mình chúng ta không có năng lực bước đi; chúng ta cần ai đó thúc đẩy chúng ta, thúc giục chúng ta đi. Thế thì chúng ta được đảm bảo và cảm thấy tin tưởng. Chúng ta cảm thấy không cần lo âu; chúng ta không thể sai được. Nhưng nhớ, đây là sai lầm lớn nhất. Bất kì cái gì chúng ta làm sau khi buông xuôi tự do của chúng ta đều là sai lỗi, tội lỗi, tội ác.

 

Từ “Con đường Đạo”, T.3, Ch.4, Hiện diện vô hiện diện của Đạo

Để lại một bình luận