Biểu lộ và vô biểu lộ

Khi những người như Lão Tử và Phật nói về trạng thái hư vô này, chúng ta đã hiểu lầm họ. Chúng ta nghĩ rằng khi họ nói về hư vô, điều đó ngụ ý không có cái gì. Đây là sai lầm. Khi một Phật hay một Lão Tử nói về vô hiện hữu, đó là trạng thái của sự tồn tại. Biểu lộ hay vô biểu lộ là hai hình thể của cùng một điều.

Tôi nói, và thế rồi tôi trở nên im lặng. Nếu chúng ta hỏi Phật, ông ấy sẽ nói, “Nói và im lặng là hai trạng thái của cùng một năng lượng.” Năng lượng là nói vào nhiều lúc và là im lặng vào nhiều lúc. Năng lượng không tắt ngấm trong trạng thái im lặng; nó chỉ yên tĩnh. Vô hiện hữu là việc biến mất của hiện hữu, không phải là việc tắt ngấm của nó. Nếu điều này được hiểu đúng, nhiều thứ trở thành rõ ràng. Vô hiện hữu không phải là tắt ngấm vì, theo Lão Tử, không cái gì đã bao giờ bị diệt trong thế giới này.

Bây giờ, ngay cả khoa học cũng thừa nhận rằng vật chất là không thể huỷ diệt được. Bạn không thể phá huỷ ngay cả một hạt cát. Bạn có thể nghiền nó, nhưng thế thì cái đã cùng nhau trong một mảnh sẽ biểu lộ trong các hạt. Bạn đốt một vật và nó biến tranh tro, nhưng cái đã hiện diện trong vật này vẫn hiện diện. Làm sao bạn phá huỷ được cái đó? Nhiều nhất bạn có thể phá huỷ hình thể này và tạo ra hình thể khác. Nhiều hơn điều này bạn không thể làm được.

Nước có thể được biến thành băng, và băng có thể trở thành hơi. Sông có thể trở thành đại dương, và đại dương có thể trở thành mây. Mây lại trở thành sông; bạn không bao giờ có thể phá huỷ được nó. Không một giọt nước nào có thể bị phá huỷ; điều đó là không thể được. Khoa học đã khám phá ra một sự kiện thú vị: là kể từ khi sự tồn tại đi vào hiện hữu, nó đã không giảm đi một hạt, cũng không tăng lên một hạt. Có nhiều thay đổi thế khắp xung quanh chúng ta, vào mọi lúc, vậy mà tổng cộng vẫn là hằng số. Vũ trụ là bao la làm sao, và rối loạn làm sao: sao hình thành và tan rã; các thế giới được tạo ra và bị phá huỷ; người tới rồi đi, qua nhiều kiếp sống thế. Có nhiều người thế, nhiều cung điện thế và nhiều nấm mồ thế – và thế rồi, im lặng. Nhiều rối loạn thế trong khi sự sống kéo dài; thế rồi im lặng của chết. Và vậy mà, vũ trụ không giầu hơn không nghèo hơn bởi một hạt.

Vũ trụ ngụ ý tổng cộng của mọi thứ. Không có gì bên ngoài nó. Thế thì làm sao nó có thể tăng lên được? Và cũng vậy, làm sao nó có thể giảm đi, vì không một hạt nào có thể rơi ra ngoài nó. Tính toàn bộ của vũ trụ bao giờ cũng vẫn còn như vậy. Hình thể thay đổi, nhưng cái mang các hình thể bao giờ cũng vẫn là vậy. Mọi vật xuất hiện và biến mất nhưng sự tồn tại vẫn là vậy như bao giờ. Lão Tử nói, “Rồi lại trở về chỗ không có.”

Sự tồn tại có hai chiều. Biểu lộ của nó ngụ ý, việc mang đa dạng hình thể của nó, và trở về hư vô của nó ngụ ý trở thành vô hình thể. Chúng ta nghe bài hát. Một phút trước đó, giai điệu đã không có đó. Thế rồi chúng ta nghe thấy nó và một phút sau nó lại không còn nữa – nó trở về hư vô. Hoa nở. Nó đã không có đó một khoảnh khắc trước. Thế rồi một ngày bừng lên và mặt trời tắm cho các cánh hoa của nó bằng tia sáng. Hoa mở ra, nó hát bài ca cuộc sống của nó, nó lan toả hương thơm của nó. Thế rồi tối tới và hoa héo đi. Nó rơi xuống đất và không còn nữa.

Từng vật vậy đều xuất hiện và biến mất. Nhưng vô hiện hữu không ngụ ý rằng nó trở nên tắt ngấm. Vô hiện hữu ngụ ý bị hấp thu vào trong hư vô, bị mất đi lần nữa vào trong hư vô. Vô hiện hữu ngụ ý là vô biểu lộ. Biểu lộ và vô biểu lộ là hai mặt của sự tồn tại.

Một người tới Lão Tử. Người đó là người vô thần. Ông ta nói với Lão Tử, “Không có Thượng đế.”

Một trong các đệ tử của Lão Tử người là người hữu thần có đó. Anh ta nói, “Thượng đế hiện hữu.”

Lão Tử nói, “Cả hai ông đều đúng. Từng người trong các ông đang nói về một mặt của Thượng đế. Không thể có đối lập, không có biện luận giữa các ông. Một mặt của Thượng đế là biểu lộ của Ngài; mặt kia là vô biểu lộ của Ngài. Người vô thần đang nói về vô biểu lộ của Ngài còn người hữu thần đang nói về biểu lộ của Ngài. Cả hai ông đều đúng. Nhưng cả hai ông cũng sai nữa, vì lí lẽ của các ông là không đầy đủ.”

Lão Tử nói, “Thượng đế hiện hữu, và Thượng đế vô hiện hữu. Cả hai điều này là đúng đồng thời, vì cả hai là các cách thức hiện hữu của Ngài.” Lão Tử do vậy trở nên khó cho chúng ta hiểu vì thế thì điều đó trở thành khó để định nghĩa Thượng đế. Một người khẳng định rằng Thượng đế hiện hữu. Người đó có thể đưa ra phát biểu rõ ràng. Người khác khẳng định rằng Thượng đế vô hiện hữu. Phát biểu của người đó cũng rõ ràng. Nhưng Lão Tử xác nhận rằng Thượng đế hiện hữu, và vô hiện hữu. Điều này thách thức mọi định nghĩa. Nhưng điều Lão Tử nói là đúng. Điều Lão Tử nói là đúng, vì vô hiện hữu cũng là cách hiện hữu. Không có mâu thuẫn và không có đối lập giữa hai điều này.

Nếu điều này trở thành rõ ràng cho chúng ta, thế thì chúng ta sẽ hiểu rằng sinh là cách hiện hữu và chết cũng là cách hiện hữu. Trong sinh chúng ta biểu lộ, và trong chết chúng ta trở về cõi hư vô. Là thức là cách hiện hữu. Thế thì, chúng ta hoạt động. Là ngủ cũng là cách hiện hữu. Thế thì chúng ta không hoạt động. Trong thức, chúng ta hoạt động trong thế giới bên ngoài. Trong ngủ, chúng ta hoạt động bên trong bản thân chúng ta. Ý thức và vô ý thức là hai mặt của con người chúng ta. Trong trạng thái ý thức, có nhiều chuyển động bên trong chúng ta. Trong trạng thái vô ý thức, mọi thứ là im lặng, ngay cả ý thức.

Chúng ta phải phá vỡ sự thù địch, cái tồn tại giữa trạng thái này của hiện hữu và vô hiện hữu. Chỉ thế thì chúng ta sẽ có khả năng hiểu Lão Tử. Tuyệt đối không có mâu thuẫn, không thù nghịch, giữa hai điều này. Chúng là hai mặt của cùng một thứ. Và vậy mà, điều đó trở thành khó định nghĩa, vì hết lần này đến lần khác cái biểu lộ trở lại cõi của vô biểu lộ. Việc chuyển liên tục này từ biểu lộ sang vô biểu lộ làm cho khó định nghĩa Đạo. “Ấy gọi là cái hình trạng không hình trạng.” Cái vô hình thể là hình thể của nó. Nó là tới mức nó không có hình thể.

Điều này nữa chúng ta sẽ thấy khó hiểu, vì chúng ta có xu hướng nhìn mọi thứ dưới dạng mâu thuẫn, trong khi cách nhìn mọi thứ của Lão Tử là bằng việc hợp nhất chúng. Chúng ta biết những người tin vào các biểu lộ của Thượng đế, chúng ta biết những người tin vào Ngài là không có hình thể, và chúng ta biết việc cãi nhau giữa họ.

Hồi giáo nói rằng Thượng đế là vô hình thể, cho nên người Hồi giáo không cho phép ảnh của Thượng đế hiện hữu ở bất kì chỗ nào. Có một đền thờ ở Mecca với ba trăm sáu mươi nhăm thần tượng để tôn thờ. Từng thần tượng mô tả cho một hình thể của Thượng đế, và có ba trăm sáu mươi nhăm thần tượng, mỗi thần tượng cho từng ngày. Người đã tạo ra những hình ảnh này phải đã rất có trí tưởng tượng. Từng ngày họ tôn thờ Thượng đế trong hình thể mới. Do vậy, từng ngày họ tôn thờ một thần tượng. Đây đã là quan niệm vô giá: từng ngày họ tôn thờ một hình thể mới. Và vậy mà họ phải đã là những người trung thành với quan niệm rằng Thượng đế là vô hình thể. Làm sao hình thể có thể thay đổi nếu họ tôn thờ hình thể? Chính chỉ cái vô hình thể mới có thể thay đổi hình thể dễ dàng thế. Cái mà thay đổi từ mọi ngày chứng minh rằng nó không có hình thể xác định. Nó có thể biểu lộ trong bất kì hình thể nào.

Ở nước chúng ta, người Hindu đã tạo ra hàng nghìn ảnh của Thượng đế. Từ đá chưa đẽo gọt dưới cây cho tới những tác phẩm ở Khajuraho có vô số ảnh Thượng đế ở Ấn Độ. Quan niệm về ba trăm ba mươi triệu thần được thấy chỉ ở Ấn Độ.

Có đấu tranh thường xuyên giữa những người tin Thượng đế có hình thể và những người tin Thượng đế vô hình thể. Người tin vào vô hình thể không thể quán tưởng được cái vô hình thể lấy hình thể và người tin vào các biểu lộ của Thượng đế không thể hiểu được tại sao Ngài, người biểu lộ bản thân mình theo nhiều hình thể và hình dạng thế lại không thể biểu lộ trong hình ảnh đá. Đá cũng là hình thể của Thượng đế. Làm sao nó có thể tồn tại khác được?

Chính chỉ mãi về sau các hình ảnh mới bắt đầu được chạm khắc. Lúc ban đầu, bất kì đá nào cũng có thể được làm mờ bằng sơn đỏ và thần tượng được tạo ra. Và thần thích hợp đã biểu lộ bản thân ông ấy cho người tôn thờ. Khi bạn thấy một tảng đá được làm mờ bằng sơn đỏ bạn sẽ không thấy làm sao nó có thể trở thành một Thượng đế. Có lẽ dân làng đã không biết tới nghệ thuật điêu khắc, bạn nghĩ. Điều đó không phải vậy. Bất kì hình dạng nào đều là hình dạng của Ngài, mọi hình thể là của Ngài, cho nên bất kì hình dạng nào cũng được. Đây là ý tưởng đằng sau nó.

Hai quan niệm này dường như xung đột vì với chúng ta, hình thể và vô hình thể là các thuật ngữ tương phản. Lão Tử không thấy xung đột trong chúng. Quan niệm cơ bản của Lão Tử là quan niệm về hài hoà ở mọi nơi trong sự sống. Mọi phẩm chất là của Ngài. Ngài cũng là vô phẩm chất. Ngài là hình thể và Ngài là vô hình thể. Đó là điều chúng ta nói: hình thể của vô hình thể. Chúng ta chấp nhận các hình thể của Ngài vì chúng ta biết Ngài là vô hình thể. Chính trạng thái vô hiện hữu chúng ta coi như hiện hữu của Ngài. Sự thiếu vắng của Ngài chỉ là hình thể của sự hiện diện của Ngài.

Bây giờ điều đó trở nên khó định nghĩa hơn. Nếu chúng ta dựa vào lời, chúng ta có thể vẽ ra các đường giới hạn. Nếu chúng ta nói Thượng đế là đầy các thuộc tính, chúng ta có thể gạt sang bên khía cạnh về vô thuộc tính. Nếu chúng ta tin vào khía cạnh hình thể, chúng ta có thể gạt sang bên khía cạnh vô hình thể. Và ngược lại. Nhưng nếu chúng ta nói rằng Ngài là cả hai, đường biên trở thành mờ mịt và định nghĩa còn khó hơn.

Ngài là hình ảnh của rỗng, của hư vô. Hình ảnh chỉ có thể được khắc trên vật chất; điều đó có nghĩa hình dạng, hình thể. Làm sao cái vô hình thể có thể được mô tả trong hình ảnh? Và vậy mà, Lão Tử nói, “Cái hình trạng của cái không có vật.” Đây là nỗ lực tinh tế để nối các cái đối lập. Ngài không hiện hữu. Đây cũng là một chiều của hiện hữu của Ngài. Điều đó là khó hiểu, vì với chúng ta nếu cái này hiện hữu, cái kia không hiện hữu.

Có những thứ bên trong kinh nghiệm của chúng ta mặc dù chúng hiện hữu, và vậy mà chúng ta không thể xác định được sự tồn tại của chúng trong bất kì ngôn ngữ nào. Bạn cảm thấy yêu với ai đó trào lên bên trong tim bạn. Bạn cảm thấy nó, nhưng bạn không thể diễn đạt được nó. Đây là điều khó xử của mọi người yêu. Người đó không thể cho bất kì bằng chứng nào về tình yêu người đó trải nghiệm. Nếu bạn đề nghị người yêu đưa ra bằng chứng về tình yêu mà người đó nói tới cả ngày, và bằng chứng về điều người đó mơ cả đêm, yêu tràn đầy mọi lỗ chân lông trong thân thể người đó, điều người đó thở với mọi hơi thở, người đó trở nên bất lực vì người đó không có cách nào chứng minh nó. Cho dù người đó nỗ lực làm như vậy, người đó thấy mọi nỗ lực của mình đã thành vô ích. Người đó có thể giang tay ôm quanh người yêu của mình, người đó có thể áp sát cô ấy vào tim mình, và vậy mà không cái gì được biểu lộ. Kinh nghiệm nằm bên trong, và người đó không thể làm bất kì cái gì để biểu lộ kinh nghiệm này. Người đó thậm chí có thể cho mạng sống của mình, vậy mà cái nằm bên trong vẫn không thể biểu lộ ra.

Yêu hiện hữu. Nhưng dường như nó không hiện hữu. Yêu hiện hữu, cách thức Thượng đế hiện hữu. Đó là lí do tại sao Jesus đã dùng từ “yêu” để định nghĩa Thượng đế. Ông ấy nói, “Yêu là Thượng đế.” Điều này không ngụ ý Thượng đế là người yêu. Đây là sai lầm về phần những người Ki tô giáo, người đã nói, “Thượng đế là chính việc yêu.” Điều đó không phải là điều Jesus đã ngụ ý. Yêu hoàn hảo không thể không để ý tới ghét. Điều được ngụ ý bởi thuật ngữ “Thượng đế là yêu” là ở chỗ bằng chứng duy nhất chúng ta có về hiện hữu và vô hiện hữu đó cùng tồn tại. Yêu hiện hữu; chúng ta cảm thấy sự hiện diện của nó trong việc đo đầy đủ. Nếu một người được chuẩn bị để làm mất mạng mình vì yêu, điều đó sẽ chứng minh sự hiện diện của yêu thực trong người đó là thực thế nào và yêu đó với người đó là quan trọng hơn cả mạng sống của người đó biết bao nhiêu. Nhưng không có cách nào chứng minh sự tồn tại của nó, sự hiện diện của nó, sự hiện hữu của nó, chúng ta không thể xác định chính xác vấn đề về nó.

Jesus đã nêu sự tương tự của yêu với Thượng đế chỉ để cho bạn có thể biết Ngài qua kinh nghiệm về yêu. Nhưng chúng ta không có hiểu biết về yêu chút nào, cho nên chúng ta thấy bản thân mình gặp khó khăn lớn.

Mọi phương pháp suy tư rời xa ra khỏi yêu đều kết thúc bởi việc phủ nhận sự tồn tại của Thượng đế. Chẳng hạn, toán học. Nó bị rời xa khỏi yêu. Khoa học không chấp nhận kinh nghiệm về Thượng đế vì khoa học không liên quan gì tới yêu. Thơ ca chấp nhận Thượng đế vì thơ ca ở rất gần. Múa và nhạc tương tự chấp nhận sự tồn tại của Thượng đế vì chúng ở gần yêu thế. Mọi thứ ở gần yêu chấp nhận sự tồn tại của Thượng đế, trong khi mọi thứ rời xa khỏi yêu thấy khó chấp nhận sự tồn tại của Ngài. Họ không thể chấp nhận sự kiện về sự hiện hữu của Ngài và vậy mà không hiện hữu, Lão Tử nói: “Hư vô là hình ảnh của Ngài.” Ngài không hiện hữu, và một mình điều đó là hiện hữu của Ngài. Vì chính những lí do này Ngài được gọi là không thể tiến tới, không thể truy nhập tới và do đó, không thể biết được.

Đón nó thì không thấy đầu. Theo nó thì không thấy đuôi.” Đây là những lời sâu lắng. Đón Ngài và bạn không thể thấy hình thể của Ngài. Ngài không có hình thể. Ngài không thể có được, vì mọi hình thể đều là của Ngài. Nếu như Ngài có một hình thể của riêng Ngài, mọi hình thể không thể là của Ngài. Lời nổi tiếng của Lão Tử là: “Ngài không ở đâu, vì Ngài ở mọi nơi. Ngài không là ai, vì Ngài là mọi người.”

Và mặc dầu Ngài không có hình thể, vẫn có thể gặp Ngài. Đó là lí do tại sao những người được tham gia và bị ám ảnh bởi hình thể lại không gặp được Ngài. Ai đó bị ám ảnh bởi Rama, ai đó bị ám ảnh bởi Krishna và ai đó bị ám ảnh bởi Jesus. Đây là các hình thể. Ngài tồn tại trong những hình thể này nữa, nhưng không hình thể nào là của Ngài. Nói cách khác, mọi hình thể là của Ngài. Điều này cần được nhớ trong tâm trí vì nếu không chúng ta nhất định phạm sai lỗi. Người sùng kính Rama tìm mặt của Rama ở mọi nơi, nhưng Ngài là vô mặt. Thế thì, chính mặt này trở thành cản trở.

Mặt của Rama giúp ích tới giới hạn nào đó – vì trong mặt của Rama người ta có thể có được thoáng nhìn về Ngài – nhưng điều đó chỉ có thể giúp đỡ xa chừng này thôi. Nếu nó còn dai dẳng, mặt này trở nên có ý nghĩa nhiều hơn thoáng nhìn về Thượng đế mà nó cho lại.

Shri Aurobindo đã nói rằng mọi bước đi giúp ích ban đầu đều trở thành cản trở về sau. Con đường dẫn tới cách làm lạc lối người tìm kiếm và đưa người đó đi lạc lối sau một thời gian nào đó. Do đó, chọn đường cẩn thận và nhớ nó có thể hữu dụng được bao lâu. Điều này là rất khó – tôi biết. Từng bước đi phải được lấy chừng nào nó vẫn còn là bước đi. Ngay khi nó bắt đầu chắn đường bạn, bước sang bên. Mặt của Rama giúp ích vì sự dễ dàng với hình ảnh của hư vô được phản xạ trong mặt đó, là khó phán đoán trong các mặt khác. Hư vô trở nên biểu lộ trong mặt của Rama. Đến chừng đó nó giúp ích. Nhưng điều xảy ra là ở chỗ mặt này dần mang nhiều ý nghĩa hơn, nhiều tới mức nó dừng phản xạ hư vô mà là biểu lộ trong nó. Đây là điều bao giờ cũng xảy ra.

Khi một người tìm kiếm lần đầu tiên tới Phật, anh ta không bị hấp dẫn. Mắt Phật diễn đạt sự tách rời đầy đủ, và trong cách diễn đạt này người tìm kiếm bắt đầu thấy cái ở bên ngoài Phật. Thế rồi hấp dẫn bắt đầu, và nó trở nên mỗi lúc một mạnh hơn. Khi gắn bó tăng lên, cái đã ở bên ngoài Phật bắt đầu dừng biểu lộ. Thế thì người tìm kiếm bị bỏ lại chỉ với mặt Phật. Do đó, Phật đã nói cho các đệ tử đừng làm ảnh của ông ấy. Lí do đã không phải là ông ấy chống lại các thần tượng mà vì ông ấy đã thấy tình huống trên xảy ra trong những người tìm kiếm tâm linh sadhakas của ông ấy. Họ mất cái nhìn về cái ở bên ngoài ông ấy.

Nhưng mặt của Phật đẹp tới mức mọi người đã không kính trọng ước muốn của ông ấy. Người ta nói rằng số ảnh được làm về Phật nhiều hơn mọi ảnh khác, nhiều tới mức từ “But” vốn bắt nguồn từ từ “Budh” bắt đầu được biết tới như một ảnh. Từ này có nghĩa: hình ảnh – trong tiếng Persian, Arabic và Urdu. Có lẽ những người không quen thuộc với hình ảnh trước đây và hình ảnh của Phật đã là hình ảnh đầu tiên được khắc lên đá. Vậy mà ông ấy đã cấm những người đi theo làm hình ảnh của ông ấy.

Đây là khó khăn. Nếu cõi bên kia là biểu lộ, mặt là hữu dụng. Nếu cõi bên kia trở thành vô biểu lộ, mặt trở thành cản trở. Hình ảnh trở thành lối mở, cổng tới cái vô hình thể, nếu việc nhớ về vô hình thể còn lại.

 

Từ “Con đường Đạo”, T.3, Ch.11 Ảnh của cái vĩnh hằng và cái vô hình thể, cái cổ đại và cái trống rỗng

Để lại một bình luận