Vô hiện hữu là bản thể của chúng ta

Và bây giờ tới lời kinh của chúng ta hôm nay. Cái gì được ngụ ý bởi phát biểu rằng vinh và nhục cả hai đều ở bên trong chúng ta.

Chúng ta bị quấy rầy bởi sợ vì chúng ta đã coi bản ngã của mình là cái ngã đích thực của chúng ta. Nếu chúng ta không coi bản ngã là hồn của chúng ta, thế thì sợ ở đâu? Kinh này hơi chút khó. Chúng ta sẽ cố hiểu nó từ các hướng khác nhau.

Lão Tử không tin vào linh hồn cá nhân. Đây đích xác là niềm tin của Phật. Một sự kiện cũng thú vị là vì chính lí do này, Phật giáo đã không thể bám đất ở Ấn Độ; trong khi với chính lí do này triết lí của Lão Tử đã cắm chân vững chắc ở Trung Quốc. Phật đã tuyên bố những lời sâu sắc nhất mà con người có thể thốt ra. Nhưng lời của ông ấy là sâu sắc và sâu lắng tới mức nó ở bên ngoài việc hiểu của những người ở gần. Lời thốt ra của ông ấy là sâu lắng tới mức không âm thanh nào đạt tới tai của chúng ta; và khi nó đạt tới, nó đã hoàn toàn bị thay đổi và biến dạng. Thế thì nghĩa chúng ta lấy ra từ lời của ông ấy đã mang nghĩa riêng của chúng ta.

Phật nói, “Dừng mọi việc nói này về atman, vì chính ý nghĩ rằng ‘Tôi là atman’, ngắt tôi khỏi sự tồn tại và làm tôi thành thực thể tách biệt.” Điều này dường như là khó khăn vì nếu atman không hiện hữu, thế thì mọi thứ dường như bị mất.

Mọi người sẽ hỏi Phật, “Nếu không có atman, thế thì samadhi có giá trị gì, hệ thống tu luyện và đức hạnh có giá trị gì? Tại sao phải có mọi điều này? Nếu atman có đó, người ta có thể hiểu rằng những điều này là được cần để đạt tới atman.” Đó là cùng ngôn ngữ cổ của tham. Nếu một người ăn năn hối lỗi, nếu người đó từ bỏ của cải để thu được hồn, điều này tới trong việc hiểu của họ.

Họ hỏi Phật, “Nếu không có hồn, lí do gì để ăn năn hối lỗi? Nếu không có hồn, cái gì sẽ được giải thoát? Nếu chúng ta đạt tới chứng ngộ và chẳng có atman, cái gì sẽ bị bỏ lại?” Việc truy hỏi này chỉ là tự nhiên, vì mọi người chỉ hiểu ngôn ngữ của tham chứ không ngôn ngữ nào khác.

Phật nói, “Đau buồn của ông là điều ông là vậy. Chừng nào ‘ông’ vẫn hiện hữu, ông sẽ vẫn còn khổ.”

Đây đã là một phần rất khó của lời khuyên. Bỏ ham muốn là hiểu được vì thế thì ít nhất ‘tôi’ sẽ có đó, người ham muốn. Mọi thứ có thể được từ bỏ, nhưng ‘tôi’ phải còn lại chứ. Nhưng Phật nói, “Nếu ông còn lại, mọi thứ còn lại. Chính con người ông là chỗ thế giới hiện hữu, vì ông không là gì ngoài đống các ham muốn.”

Bạn có nhận ra rằng nếu bạn gạt ham muốn của bạn sang bên từng cái một và đứng tách rời chúng, trạng thái của bạn sẽ giống như củ hành không? Bạn bỏ lớp vỏ này của củ hành sau lớp vỏ khác, và cái gì còn lại lúc kết thúc? Gạt ham muốn của bạn từng cái một ra, và bạn sẽ thấy rằng bạn không còn nữa. Ít nhất, cái mà bạn nghĩ bạn là, sẽ không có đó. Cái còn lại là xa bên ngoài quan niệm của bạn, xa bên ngoài hiểu biết của bạn. Do đó, khi có liên quan tới bạn, cái còn lại là rỗng. Bạn sẽ bị mất.

Lời của Phật đã không thể bắt rễ được ở Ấn Độ vì Phật đã phủ nhận atman. Ông ấy nói không có atman. Biết rằng bạn vô hiện hữu là hiểu biết – theo Phật. Điều này là quá khó không chấp nhận được. Nhưng lời của Phật đã tìm thấy mảnh đất mầu mỡ ở Trung Quốc, vì Lão Tử đã chuẩn bị nền đất trước ông ấy. Lão Tử đã dạy rằng người sợ vì tham, người sợ vì anh ta đã coi bản ngã của mình là mọi thứ.

Cái ‘tôi’ bên trong chúng ta, việc cảm thấy rằng ‘tôi hiện hữu’, là nguyên nhân của mọi tham và buồn của chúng ta. Thực ra, ‘tôi’ vô hiện hữu; mọi thứ hiện hữu. Và trong mọi thứ này, tôi cũng hiện hữu. Nhưng không như ‘tôi’. Tôi hiện hữu, như sóng trong đại dương. Sóng ở trong đại dương; nó là một phần của đại dương. Mặc dầu nó dường như tách rời khỏi đại dương, nhưng nó không tách rời. Nó là một với đại dương bên dưới, nó chỉ mang một hình thể nào đó trên bề mặt. Chúng ta biết rằng sóng là một phần của đại dương, và vậy mà chúng ta coi nó như tách bạch khỏi nước bên dưới.

Tôi là một con sóng. Nhưng nếu sóng làm ra vẻ là tính cá nhân riêng của nó, khổ của nó bắt đầu. Nếu sóng coi bản thân nó là thực thể tách rời, sinh của nó trở thành có ý nghĩa và chết của nó trở thành có ý nghĩa. Bây giờ ai khác ngoại trừ bản thân nó có thể cứu được nó khỏi sợ chết? Khắp xung quanh, nó thấy sóng đổ xuống; khắp xung quanh nó thấy nấm mồ của các bạn đồng hành của nó. Nó cũng biết rằng kết thúc của nó là gần. Khi nó vươn lên cao để chạm trời, nó cảm thấy chân nó mất đất ngầm bên dưới và nó biết cái kết là gần.

Sợ tắt ngấm này, sợ chết này – lí do gì cho điều đó? Sợ này không phải vì sóng sẽ không còn nữa; chính vì sóng đã coi bản thân nó tách rời khỏi đại dương. Nếu nó mà coi bản thân nó là một với đại dương, sợ sẽ ở đâu? Đại dương tồn tại. Đại dương đã hiện hữu khi sóng dâng lên, và nó vẫn tồn tại khi sóng rút xuống. Thế thì thời gian ở giữa việc dâng lên và việc rút đi của sóng sẽ trở thành trò chơi đơn thuần mà không cần được coi là nghiêm chỉnh. Nước là đại dương, một khi điều này được hiểu, không thể có sợ.

Sợ chỉ là vì tôi coi bản thân tôi là một mình và tách rời. Thế thì tôi phải bảo vệ bản thân tôi chống lại mọi thứ khác; tôi phải tranh đấu với chết. Và trong tranh đấu, người làm cạn kiệt bản thân mình và bị kết thúc, vì không có cách nào thoát khỏi chết.

Lão Tử nói, “Cái gì được ngụ ý với phát biểu ‘Nhục và vinh cả hai ở bên trong bản thân chúng ta?'” Chúng ta sợ vì chúng ta đã coi bản ngã là chính cái ngã của chúng ta. Chúng ta có sợ vì chúng ta có cái ngã. Khi chúng ta không coi cái ngã là cái ngã, chúng ta phải sợ cái gì? Cơ sở của sợ của chúng ta là giả định rằng ‘tôi hiện hữu’. Nếu tôi hiện hữu, sợ việc tắt ngấm của bản thân tôi bao giờ cũng sẽ ở cùng tôi. Nếu tôi hiện hữu, sợ bao giờ cũng có đó rằng một ngày nào đó tôi có thể vô hiện hữu.

Cố hiểu điều này. Nếu tôi hiện hữu, tôi có thể không hiện hữu. Thế thì sợ bắt giữ. Phật nói, “Biết rằng ông là không hiện hữu.” Thế thì sự sống không giữ sợ cho bạn, vì sợ lớn nhất trên thế giới là sợ tắt ngấm. Mọi sợ khác được sinh ra từ một sợ này. Lão Tử cũng nói cùng điều: “Khi có cái ngã, tự hào, cảm giác rằng tôi hiện hữu, thế thì có sợ.” Nếu cái ‘tôi’ không hiện hữu, thế thì sợ ở đâu?

Tuy nhiên có một điều phải được suy xét. Chúng ta có nên tin rằng ‘tôi không hiện hữu’ không? Không cái gì tới từ việc tin đơn thuần. Ai sẽ tin? Người tin, người tin rằng ‘tôi không hiện hữu’ vẫn còn lại. Nếu tôi tin rằng tôi không hiện hữu, tôi vẫn hiện hữu đó thôi – tôi là người tin. Điều này trở thành niềm tin của tôi. Cho nên Phật nói, “Không thành vấn đề về việc tin. Tìm và thấy ông thực sự hiện hữu. Tìm cái ngã. Ông có ở trong thân thể không? Thế rồi tìm thân thể. Ông có ở trong ý nghĩ của ông không? Thế rồi tìm ý nghĩ của ông. Ông có ở trong cảm xúc của ông không? Thế rồi tìm cả ở đó nữa. Tìm, tìm không mệt mỏi. Ông ở đâu? Thế thì, đến cuối, khi ông đã xem xét mọi nguồn, ông sẽ thấy rằng ông bị mất – ông không còn hiện hữu!”

Điều này, việc vô hiện hữu của bạn, không phải là niềm tin, cũng không đơn thuần là khái niệm hay tín điều. Đây là sai lầm bị các học giả phạm phải. Họ đã hiểu sai Phật. Họ đã nói, “Học thuyết của Phật là ở chỗ không có atman (cái ngã).” Thế rồi các học giả Ấn Độ bắt đầu chứng minh Phật sai. Đây không phải là nguyên lí với Phật; nó đã là trải nghiệm sâu sắc, sâu lắng. Nếu như nó mà là học thuyết đơn thuần, nó chắc là sai.

Long Thọ, một đệ tử của Phật, đã viết một bộ luận có tên là, Trung quán luận (Mool madhyamic karika). Cuốn sách này không có bản tương đương trên thế giới. Đương nhiên, vì nó ở ngay bên cạnh việc không thể tìm thấy, lại nữa, do một người như Long Thọ viết. Ông ấy đã chứng minh trong cuốn sách này rằng không cái gì tồn tại. Bạn không tồn tại mà tôi cũng không tồn tại, cả thế giới trần tục này cũng không – không cái gì hiện hữu. Điều tự nhiên duy nhất là người như vậy thấy bản thân ông ấy gặp khó khăn với thế giới. Dễ dàng thế để chứng minh ông ấy sai. Bất kì ai cũng có thể nghi vấn, “Nếu không cái gì hiện hữu, thế thì cuốn sách này để làm gì? Nếu ngay cả ông cũng không hiện hữu, ai đã viết cuốn sách này? Ai là người tranh cãi? Và nếu các độc giả là vô tồn tại, ông đang cố đạt tới ai?”

Đây đã là khó khăn của Long Thọ. Điều ông ấy nói là kết quả của trải nghiệm sâu sắc của ông ấy. Thực sự, điều ông ấy ngụ ý nói là ở chỗ không có sự tồn tại cá nhân. Không có gì giống như sóng; chỉ đại dương hiện hữu. Nhưng khi chúng ta nói ‘đại dương’, chúng ta đặt ra biên giới. “Do đó,” Long Thọ nói, “không thể nêu ra sự tương tự nào với cái đang hiện hữu vì bất kì cái gì tương tự chúng ta đưa ra chỉ là bên trong biên giới nào đó.” Cho nên Long Thọ nói rằng chúng ta phải kể lại chi tiết, từng thứ một, mọi thứ rằng chúng ta không hiện hữu. Hiểu việc phủ định, không cái này, không cái này. Nhận ra nó. Thế thì, khi bạn đi tới cuối cuộc hành trình này, cái còn lại là cái hiện hữu, không có gì khác.

Lão Tử nói, “Sợ của chúng ta là gì?” Tại sao chúng ta lùi lại khỏi chê và khao khát khen? Khen ngụ ý rằng ai đó đã mô tả bạn như sóng lớn, chê ngụ ý rằng ai đó đã mô tả bạn như sóng nhỏ, không đáng kể. Và Lão Tử nói: “Ông không hiện hữu.” Chừng nào bạn còn tin bản thân bạn là sóng, khen sẽ cho vui và chê sẽ cho đau. Những người dường như là bạn của bạn sẽ là những người khen sóng của bạn, trong khi những người cố nghiền nát nó sẽ dường như là kẻ thù của bạn.

Phật đã được cho ăn chất độc một cách không chủ tâm bởi ai đó. Điều này mang tới cái chết của ông ấy. Người phục vụ là người nghèo, đã yêu thương mời Phật tới nhà mình. Những người ở Bihar nhặt nấm trong mùa nắng và phơi khô chúng để dùng về sau. Đôi khi chúng trở thành độc. Người này không thể cúng dường cho Phật bất kì cái gì ngoài những nấm này, mà anh ta đã không biết đã trở nên độc. Phật đã biết với miếng ăn đầu tiên, nhưng dù sao đi chăng nữa ông ấy đã ăn. Đến lúc ông ấy về lại chỗ cư ngụ, chất độc đã lan toả trong luồng máu của ông ấy. Khi ông ấy nằm trên giường chết, bạn ông ấy hỏi ông ấy, “Sao thầy không bảo người đó rằng nấm hỏng?”

Phật nói, “Chúng hỏng, nhưng ai có đó để nói?” Khi họ khăng khăng rằng đó là vấn đề sống và chết, Phật đáp, “Nếu như ta có đó, ta có thể đã chết. Nhưng ta không hiện hữu, cho nên vấn đề chết đã không xuất hiện cho ta. Nếu ta hiện hữu, ta phải chết.”

Nhưng chúng ta có phải tin vào điều này không? Đây là khó khăn. Mọi người tin; có mười triệu Phật tử đi với niềm tin được gợi ý bởi Phật rằng ‘Tôi không hiện hữu’. Nhưng điều này không tạo ra khác biệt. Không ai đạt tới trạng thái Phật tính bởi niềm tin đơn thuần. Điều này không có giá trị. Điều được yêu cầu là ở chỗ người ta phải biết.

Đi sâu vào bên trong và truy vấn, ‘Tôi có hiện hữu không?” Khi việc tìm của bạn đi sâu hơn, bạn sẽ biết. Trên bề mặt dường như là tôi là thân thể. Nhưng Phật nói, “Người tin rằng mình hiện hữu, chẳng biết gì – dù người đó tin người đó là thân hay dù người đó tin là hồn. Người biết rằng mình không hiện hữu, biết bản thể mình.”

Khi tôi nói tôi không hiện hữu, bản thể của tôi vẫn hiện hữu nhưng bản thể này không có kết nối với bản ngã. Khi tôi nói sóng không hiện hữu, dù sao đi chăng nữa sóng vẫn có đó nhưng nó không bị giới hạn là một con sóng; nó là đại dương. Nếu sóng mà cư ngụ bên trong bản thân nó, trong việc tìm bản thân nó, nó sẽ sớm thấy rằng sóng bị mất đi và cái nó thấy là đại dương. Theo đích xác cùng cách này, khi một người cư ngụ bên trong bản thân mình, người đó thấy rằng cá nhân bị mất đi và Thượng đế được đạt tới.

Lão Tử không dùng cái tên Thượng đế, vì trong ngôn ngữ của người, từ này cũng chứng tỏ là sai. Chúng ta đã nói tên của ngài bằng nhiều đôi môi thế, chúng ta đã nhận diện tên ngài bằng vô hạn ngu xuẩn và chúng ta đã gây ra nhiều bệnh do cái tên này, tới mức Lão Tử đã chọn im lặng về điểm này. Ông ấy nói, “Chỉ biết điều này: Rằng ông không hiện hữu. Thế thì khen sẽ không ảnh hưởng tới ông, vì ai là người được khen? Thế thì chửi sẽ không làm đau ông, vì ai bị chửi? Thế thì bản thân cuộc sống sẽ không ảnh hưởng tới ông, vì thế thì cuộc sống của người như vậy là không hiện hữu đó sao?”

Là một với đại dương không bị chạm tới, không bị hư hỏng đi. Khi chúng ta không coi bản ngã là cái ngã, thế thì sợ là gì? Cái gì được ngụ ý bởi sợ? Coi bản thân người ta là tách rời là sợ.

“Do đó, người đó tôn vinh thế giới như người đó tôn vinh bản thân mình….” Khi nào điều này là có thể? Nó chỉ có thể hiện hữu khi không có bản ngã trong tôi, khi không có cảm giác về cái ngã cá nhân trong tôi. Nếu tôi hiện hữu, tôi không thể cho bạn cùng vinh dự như tôi cho bản thân tôi. Tại sao?

Lời của Nietzsche, được nói về đau, mặc dù kì lạ, dù sao đi chăng nữa là đúng. Ông ấy nói, “Nếu có Thượng đế ở đâu đó, ông ấy chỉ có thể là người thứ hai với tôi. Làm sao tôi có thể coi bất kì ai trên bản thân tôi được?” Đây là sự kiện đáng quan tâm. Cho dù bạn muốn, bạn không thể coi bất kì ai ở trên bạn được. Không có cách nào làm điều đó, vì cơ chế bên trong không cho phép điều đó. Cho dù bạn coi ai đó ở trên bạn, chính bạn, người đã cho người đó tình trạng này. Người chỉ định trạng thái này bao giờ cũng ở trên người được chỉ định.

Nếu tôi đi và buông xuôi bản thân tôi dưới chân ai đó, ngay cả thế chính tôi là người đang buông xuôi. Tôi là người chủ của việc buông xuôi, đó là hành động của tôi. Nếu tôi muốn, tôi có thể rút lại việc buông xuôi của tôi. Ai có thể cản tôi? Chính tôi là người đã lấy quyết định đặt đầu tôi dưới chân ai đó. Quyết tâm buông xuôi là của tôi toàn bộ. Cho nên ngay cả bằng buông xuôi theo ai đó, tôi không đặt người đó lên trên tôi; điều này là việc không thể được. Nhưng điều này liệu có nghĩa là buông xuôi đã không bao giờ xảy ra trên thế giới không? Nó đã xảy ra, và nó quả có xảy ra, nhưng chỉ khi điều bừng lên trên tôi là ‘Tôi không hiện hữu.’ Chừng nào cái ‘tôi’ còn tồn tại, việc buông xuôi này là quyết tâm của tôi.

Anh họ của Phật, Ananda đã nhận khai tâm từ Phật. Ông ấy bảo Phật rằng sau khai tâm lệnh của Phật sẽ là lệnh tối thượng cho ông ấy. Khi ông ấy vẫn còn chưa được khai tâm, ông ấy muốn Phật ban cho ông ấy ba điều ưa chuộng mà, xem như người anh lớn tuổi hơn, ông ấy mong đợi được quyền vậy. Ông ấy đã nhận ba lời hứa từ Phật. Đây đã là sự vụ rất sâu sắc; người nhận khai tâm (Ananda) đã là một trong những người kì diệu nhất trên thế gian.

Phật nói, “Vội gì nào? Ngay cả nếu anh yêu cầu em về sau, em sẽ không bao giờ từ chối anh.”

Nhưng Ananda nói, “Nhưng ai sẽ yêu cầu, khi tôi không còn hiện hữu? Vậy mà tôi là người dốt và coi bản thân tôi là anh họ của chú, và lấy điều đó là quyền của tôi. Cho nên tốt hơn cả là yêu cầu bây giờ.”

Lời hứa được cho, và Phật đã giữ lời của mình cho tới cuối đời ông ấy. Và trong bốn mươi năm Ananda đã đi theo Phật như cái bóng. Ông ấy là gần gũi nhất với Phật, vì không ai khác có thể là vậy.

Thế rồi Phật chết. Một cuộc thảo luận được triệu tập để kết tập lại mọi giáo huấn của Phật. Ananda đã là người biết mọi điều Phật đã nói, Phật đã nói với ai và khi nào. Phát biểu của ông ấy đáng phải được coi như đích thực nhất, vì không cái gì đã bao giờ xảy ra quanh Phật mà Ananda đã không biết. Vậy mà ông ấy đã bị từ chối không được phép tham gia vào cuộc thảo luận. Các khất sĩ đã có ý kiến rằng Ananda còn chưa đạt tới chứng ngộ. Ananda cầu xin họ, nhưng họ cứng rắn. Khi ông ấy hỏi họ tại sao ông ấy đã bị ngăn cản, họ nói, “Đường mỏng của bản ngã mà ông đã vẽ ra (bằng việc yêu cầu ba lời hứa từ Phật) trước khi ông triệt tiêu bản ngã của ông, vẫn là cản trở.”

Ananda đã chấp nhận phán quyết của họ. Ông ấy đã nguyện rằng ông ấy sẽ không bước vào phòng trước khi ông ấy phá huỷ vết tích cuối cùng của bản ngã của ông ấy. Trong hai mươi bốn giờ ông ấy đã ngồi bên ngoài phòng, mất hút trong thiền.

Cuộc thảo luận đã diễn ra trong phòng. Sau hai mươi bốn giờ, Ananda gõ cửa. Cửa được mở ra. Các khất sĩ ngạc nhiên khi thấy một Ananda mới hoàn toàn đang đứng trước họ. Mặt ông ấy tràn đầy với vẻ rực rỡ huy hoàng kì lạ, toàn thể nhân cách của ông ấy – cách ông ấy bước, cách ông ấy mang bản thân mình – đã là khác! Các khất sĩ kêu lên. “Ananda, ông không còn là người chúng tôi đã biết. Ông đã trở thành một nhân cách mới toàn bộ.”

Ananda nói, “Trong thiền này, tôi đã trở nên ý thức về sự kiện này: Ai là anh lớn và ai là em trẻ? Lời hứa gì? Đảm bảo gì? Buông xuôi của tôi đã là có điều kiện thế. Hơi chút mặc cả trở thành điều kiện! Hôm nay tôi đã hỏi xin tha thứ. Tôi không còn khăng khăng, tôi không còn cố chấp. Nếu các ông cho tôi vào, tôi sung sướng. Nếu các ông không cho vào, tôi chấp nhận phán xét của các ông. Tôi sẽ hài lòng ngồi ngoài.”

Mọi thành viên đảm bảo với ông ấy rằng bây giờ không có phiền phức gì khi để ông ấy vào. “Việc cố chấp trước đây của ông, về việc là nhân chứng đích thực cho Phật, đã buộc chúng tôi đóng cánh cửa lại với ông. Bây giờ ông có thể vào, vì bây giờ không có khác biệt giữa bên trong và bên ngoài,” họ bảo ông ấy.

Nếu buông xuôi có điều kiện, nếu nó là hành động về phần bạn, thế thì cái tôi vẫn là người chủ. Điều này – cảm giác rằng ‘tôi hiện hữu’ – là cái tới trên đường buông xuôi. Khi điều này không còn đó, thế thì điều xảy ra là buông xuôi.

 

Từ “Con đường Đạo”, T.3, Ch.9 Duy nhất người xứng đáng là chủ là người không bản ngã

Để lại một bình luận