Đó gọi là Huyền đức

Lão Tử nói, “Đó gọi là Huyền đức.” Điều đó là như vậy. Nó hiện hữu, và vậy mà nó không là nguyên nhân cho sự lệ thuộc của bất kì người nào. Nghĩ sâu về điều này đi: Nếu Thượng đế tới và đứng trước bạn ở đây và bây giờ, bạn sẽ không còn tự do nữa. Tại sao? Vì chính sự hiện diện của Ngài sẽ tạo ra tự ti trong bạn. Bạn sẽ bị ném vào trong hoang mang; mọi hành vi xấu của bạn sẽ hiện ra lồ lộ trên mặt bạn.

Các tu sĩ giải thích cho mọi người, “Ngài có nghìn mắt. Ngài thấy ông từ mọi nơi.” Đây chỉ là thủ đoạn để làm nản lòng mọi người khỏi việc ăn cắp. Thượng đế không có mắt. Bởi điều này tôi không ngụ ý Ngài mù. Ngài cần mắt để nhìn chúng ta. Nhưng tu sĩ phải khuyên bảo, “Mắt Ngài bao giờ cũng nhìn vào ông, dù ông ở bất kì đâu!” Điều này chỉ để tạo ra sợ Thượng đế trong bạn. Nếu người ta thực sự tin vào điều này, người ta sẽ không thể nào phạm tội! Làm sao người đó có thể mơ phạm tội khi cả nghìn mắt, như đèn pha, bao giờ cũng hội tụ lên người đó!

Nhưng như vậy người được cứu khỏi tội đó đơn thuần không chống nổi sợ. Tội này bị phạm phải hơn hai lần. Tội ăn cắp bị phạm phải và phức cảm sợ ám ảnh người này.

Tôi đã nghe kể về một xơ Cơ đốc giáo, người thường tắm mà vẫn mặc quần áo. Khi xơ khác hỏi cô ấy tại sao cô ấy đã làm điều này, cô ấy nói, “Bạn không biết rằng Thượng đế ở mọi nơi sao? Ngài thậm chí ở trong nhà tắm!” Nhưng người đàn bà đáng thương này đã không được kể cho rằng người có thể nhìn khắp nhà tắm cũng có thể nhìn qua quần áo cô ấy nữa. Nếu Thượng đế là ở mọi nơi, chúng ta không thể nào cởi quần áo của mình ở bất kì đâu, vì bất kì chỗ nào chúng ta làm như vậy, Ngài nhất định nhìn.

Những điều này không là gì ngoài các cách thức làm nảy sinh sợ. Người không trở thành tốt theo cách này; người chỉ trở thành sợ. Người sợ không bao giờ là người tốt. Chỉ người bạo dạn có thể là người tốt. Tuy nhiên các tu sĩ của mọi tôn giáo đã làm cho mọi người ý thức tới sự hiện diện của Ngài ở mọi nơi – mặc dầu Thượng đế là vô hiện diện toàn bộ. Điều này nữa cũng là một phần của tự do toàn bộ của Ngài. Nếu như Ngài hiện diện, chúng ta chắc thậm chí đã không thể tồn tại, bỏ một mình việc là tự do đi. Sự hiện diện của ngài trong bản thân nó chắc đã giằng lấy tự do của chúng ta, vì thế thì, làm sao chúng ta có thể phạm bạo hành được? Thế thì mọi điều này trở thành không thể được. Cho nên chính việc vắng bóng của Ngài là phần không tránh khỏi của tự do của Ngài. Ngài hiện hữu dường như ngài vô hiện hữu. Lớp học đầy học sinh, nhưng thiếu thầy giáo. Thế thì, từng đứa trẻ làm điều nó cảm thấy thích làm. Từng người được tự do làm điều mình thích. Chính phẩm chất sâu lắng và huyền của ngài là ở chỗ Ngài hiện hữu và vậy mà ngài vắng bóng. Ngài hiện hữu, nhưng Ngài không hiện diện. Ngài ở mọi nơi, – không một li không gian nào là không có Ngài, không một lỗ chân lông nào của thân thể, không một nhịp tim đập nào, không một hạt vật chất nào mà không có Ngài – và vậy mà, Ngài không hiện diện. Việc không hiện diện của Ngài là đầy đủ tới mức mọi người nghi vấn về sự tồn tại của Ngài.

Đây là phẩm huyền của Ngài: rằng Ngài ở mọi nơi và vậy mà không phô trương tới mức chúng ta hoài nghi sự tồn tại của Ngài. Chúng ta có thể quay quanh và hỏi, “Ngài có tồn tại không? Và nếu có, thì ở đâu?” Chúng ta không được thuyết phục chừng nào chúng ta chưa nhìn thấy Ngài, vì nếu như Ngài hiện hữu, chúng ta chắc chắn có thể thấy Ngài.

Ngay cả người nói đã thấy Ngài là hoàn toàn bất lực khi được yêu cầu chỉ ra Ngài. Người đó bị đuổi ra như người điên, như tâm trí rối loạn. Có hàng nghìn người thề rằng không có Thượng đế vì Ngài không thể được thấy, cho nên khi ai đó tới tuyên bố người đó đã thấy Ngài, anh ta bị loại ra khỏi đám đông, và đứng như một nhân vật cô độc đối lập với đám đông xỉ vả anh ta. Phật, Christ, Mahavira, Mohammed, đã đứng một mình đối lập toàn thế giới. Thực ra, đã không có nhiều nhân vật đơn độc hơn họ trong lịch sử thế giới này. Họ đã sống được bao quanh bởi đám đông và vậy mà họ đã một mình.

Mahavira đã gần như bị bao quanh bởi đám đông, nhưng ông ấy đã là một mình bên trong bản thân ông ấy vì không một người nào đã hiểu hay tin điều ông ấy nói. Lão Tử cũng thấy bản thân ông ấy bị bao quanh bởi hàng nghìn người, vậy mà ông ấy đã là một mình. Những người nghe ông ấy đã hoài nghi lời của ông ấy vì họ đã không thể thấy được điều ông ấy đã nói. Vậy mà đây là những người đáng yêu. Nhân cách của họ là có sức hấp dẫn mạnh.

Chúng ta hoài nghi lời của những người này và vậy mà chúng ta không thể đừng việc đi theo họ. Sự sống nhiệt tình của họ được chất đầy bởi sức hấp dẫn huyền bí kéo chúng ta tới họ. Mắt của họ có tính thôi miên. Một khi họ chộp bạn, họ không để bạn đi. Chúng ta không có dũng cảm để chấp nhận điều họ nói, và lúc này lúc khác chúng ta muốn chạy xa khỏi họ. Chúng ta cố phê bình họ, chúng ta cố thoát khỏi họ, và vậy mà có cái gì đó trong họ thường xuyên lôi chúng ta về phía họ. Nhưng đây là những người đơn độc vì họ nói về Ngài, người mà họ thấy sự hiện diện nhưng cũng là người tuyệt đối phi hiện diện với chúng ta.

Ramakrishna đã bảo Vivekananda. “Ta đã dần biết rằng ông đã không ăn trong nhiều ngày. Tại sao ông không đi vào bên trong đền và nói với Mẹ về điều đó, ông là anh chàng ngu sao? Đi và hỏi bà ấy về điều ông muốn đi.”

Vivekananda đã là một trí thức, người không coi bất kì cái gì là được cho không và khi Ramakrishna nói như thế này, ông ta tự hỏi, “Mẹ ở đâu? Ai là mẹ này?” Nhưng Ramakrishna đã nói với đức tin và sự thuyết phục tới mức ông ta không dám nêu ra những câu hỏi này đã nảy sinh trong tâm trí ông ta.

Bố ông ta đã chết, bỏ lại món nợ cần được thanh toán. Ông ta thấy không thể nào thanh toán được nó. Không có đủ thức ăn cho hai người trong nhà, cho nên mọi ngày ông ta giả vờ ông ta đã được mời ra ngoài đi ăn để cho mẹ ông ta ăn. Ông ta sẽ trở về nhà buổi tối và nói về ông ta đã hưởng thụ bữa ăn nhiều làm sao để cho mẹ ông ta được được đảm bảo rằng ông ta đã ăn. Dưới hoàn cảnh như vậy, lời của Ramakrishna dường như là lời của người điên. Ông ấy đã nói về mẹ nào? Ông ta không thể nào tin được.

Ramakrishna mới trở thành tu sĩ của ngôi đền này thì những người uỷ thác trông nom đệ đơn kiện chống lại ông ấy. Vào ngày thứ tám, ông ấy bị triệu tới trước uỷ ban này và bị buộc tội nếm đồ ăn trước khi nó được đưa vào thờ cúng. Với điều này, Ramakrishna đáp, “Khi mẹ tôi còn nuôi dưỡng tôi, bà ấy bao giờ cũng nếm đồ ăn trước. Làm sao tôi có thể cúng cho Mẹ Thiêng liêng của tôi cái mà đã không được kiểm tra và kiểm soát? Làm sao tôi có thể chắc nó phù hợp để được đặt trước Bà ấy?”

Những người uỷ thác trông nom đền bị tràn đầy thất vọng. Ông ấy đang nói về mẹ nào? Ngôi đền là của họ, thần tượng đã là người họ đã dựng lên. Chắc chắn người này điên! Ông ấy đã là một công nhân được họ thuê với giá mười tám ru pi một tháng, họ đã chi hàng vạn ru pi khi xây dựng ngôi đền này, và người này lại liều lĩnh nói ông ấy thà bỏ việc làm này hơn là cúng thức ăn không được kiểm thử cho mẹ ông ấy! Ông ấy khăng khăng phải ngửi hoa đầu tiên trước khi cúng chúng cho Mẹ, vì làm sao hoa có thể được cúng cho mẹ mà không có hương thơm? Các thành viên của uỷ ban nhìn nhau. Người này đã nói gì? Điều đó là không thể nào tin được. Và vậy mà họ nhìn vào mắt ông ấy, họ cảm thấy rằng họ chắc phải tin điều ông ấy đã nói. Có lẽ ông ấy có thể thấy cái họ đã không thể thấy!

Người này là một mình. Và lí do cho sự đơn độc của ông ấy là phẩm huyền này của Thượng đế: rằng Ngài hiện hữu, nhưng Ngài hiện hữu dường như Ngài vô hiện hữu. Cho nên chỉ những người khám phá ra nghệ thuật nhìn Ngài trong sự vắng bóng của Ngài – một mình họ có thể thấy Ngài. Những người phát triển nghệ thuật thấy không bằng mắt, một mình họ có thể thấy Ngài. Những người ôm choàng Ngài không bằng việc dùng tay, một mình họ có thể ôm choàng Ngài. Nhưng không may, cả người hữu thần lần người vô thần đều không tin vào phẩm huyền này của Thượng đế. Hiểu điều này một chút. Người vô thần nói, “Bỏ mọi cái vô nghĩa này đi! Cái vô hiện hữu là vô hiện hữu. Cần gì mọi suy nghĩ cân nhắc này? Đi thẳng vào vấn đề đi. Nếu Ngài vô hiện hữu, Ngài vô hiện hữu; nếu Ngài hiện hữu, Ngài hiện hữu.” Logic của người vô thần là thẳng và đơn giản. Người đó tin vào toán học và tính toán thẳng. Người đó nói, “Sao đi vào mọi cái ‘dường như Ngài vô hiện hữu’ này và những chất liệu như vậy? Sao không nói thẳng ra: Ngài vô hiện hữu. Sao đi vào trong tranh cãi không kết quả dài dòng này? Nếu Ngài hiện hữu, Ngài sẽ chứng minh sự hiện diện của Ngài. Để Ngài tới trước chúng tôi và chúng tôi sẽ chấp nhận sự tồn tại của Ngài.”

Phiền phức của người hữu thần cũng là cùng một điều đó. Người đó cũng chưa có khả năng hiểu thấu cái ‘dường như’. Người đó nữa cũng không thể hiểu được rằng Thượng đế hiện hữu dường như Ngài vô hiện hữu. Thế thì người đó bắt đầu bịa ra các phương cách tất cả chúng ta đều biết. Một bịa đặt của người đó là hình ảnh, biểu tượng, để làm cho chúng ta có thể hiểu phẩm huyền này. Người đó khắc tạc hình ảnh. Thế rồi người đó quên Thượng đế và bỏ mọi việc nói về ngài. Bây giờ người đó tập trung vào hình ảnh này; người đó cúi lay tại chân nó. Hình ảnh này ít nhất là một thứ cụ thể mà người đó có thể nhìn thấy. Thế rồi người đó làm ra ảnh của Phật, Rama hay Krishna và cầu nguyện với nó:

“Con không quan tâm tới Brahma vô hình mà có thể hay không thể hiện hữu. Ngài là đủ cho con.”

Nhưng đây cũng là thái độ vô thần. Người đó không thể đánh bại được luận cứ của chủ nghĩa vô thần cho nên người đó nói, “Có thể không có Paramatman nhưng có Rama, có Krishna.” Thế rồi người đó thêu dệt ra các câu chuyện phép màu quanh và về Rama và Krishna để trả lời cho câu hỏi của người vô thần: “Khi gai đâm vào Rama, chân ông ấy chảy máu. Nếu ông giết Mahavira, ông ấy chết. Thế thì, họ chỉ là con người bình thường.” Cho nên người hữu thần phải bịa ra các câu chuyện phép màu trong luận cứ phản bác. Người đó phải nói: “Giết Mahavira. Kiếm sẽ gãy nhưng Mahavira sẽ vẫn còn không bị ảnh hưởng. Giết Jesus. Ông có thể nghĩ ông ấy chết, nhưng ông ấy lại vươn dậy ngày hôm sau. Ông ấy được phục sinh; ông ấy không thể chết.” Mọi điều này đều là kết quả của dốt của chúng ta, vì chúng ta không hiểu đặc trưng huyền của Thượng đế.

Hôm qua một người bạn tới. Anh ta là người thông minh và có quan tâm lớn tới tôi. Anh ta bảo tôi, “Tại sao thầy không làm phép màu nào đó như Sai Baba? Hàng nghìn người sẽ kéo tới thầy.” Ích lợi gì với hàng nghìn người này? Tôi sẽ làm gì với họ? Họ tới không phải bởi vì Sai Baba nhưng vì các phép màu này. Nếu cho dù một người tới vì Sai Baba điều đó chắc đã kết quả hơn.

Người tới vì phép màu không phải là người hữu thần. Người hữu thần là người nói, “Mọi thứ trong thế giới này là phép màu cả. Không có gì mà không là phép màu. Hạt mầm biến thành cây; mây bay trên trời; mặt trời ló ra, có các sao; có chim và con vật; có người – mọi thứ đều là phép màu!” Người không thấy phép màu nào trong mọi điều này bị ấn tượng bởi tro tung ra từ tay của người có phép màu. Điều mặt trời ló ra không là phép màu cho người mù này, nhưng chút tro thả ra từ tay người này và người này bị ấn tượng!

Trí thông minh tin vào tro này không phải là thông minh có thể đi tới Thượng đế. Hàng vạn người nhất định tụ tập lại, nhưng đám đông này sẽ là đám đông tụ tập để xem biểu diễn ảo thuật. Nó chẳng liên quan gì tới tôn giáo.

Những câu chuyện được thêu dệt quanh Mahavira, Christ hay Rama là giả rành rành nhưng người sùng kính, từ thất vọng cực độ bịa ra chúng. Bằng không thì Thượng đế của người đó có vẻ không khác biệt với phần còn lại của nhân loại. Cho nên người này nói, “Khi Mohammed bước, ngay cả ngày nắng nhất mây cũng di chuyển cùng ông ấy. Người sùng kính phải nói mọi điều này vì logic của người đó là cùng một thứ như logic của người vô thần; người đó có cùng trí thông minh.

Người khởi hành đi tìm phép màu không có tim của người sùng kính. Có bất kì cái gì trong thế giới này mà không là phép màu không? Chỉ cho tôi một thứ mà không phải là phép màu đi! Toàn thế giới này là phép màu!

Bạn hiện hữu chẳng phải là phép màu đó sao? Chẳng có lí do gì tại sao bạn phải hiện hữu. Thế giới chắc đã không có phàn nàn nếu như bạn vô hiện hữu. Nhưng bạn hiện hữu – một thực thể sống hoàn toàn. Điều chưa bao giờ xuất hiện cho chúng ta là chẳng có lí do gì tại sao chúng ta phải tồn tại. Thế giới chắc sẽ vẫn diễn ra tốt lành mà không có chúng ta. Vậy mà chúng ta hiện hữu! Chúng ta không biết ai tạo ra chúng ta; chúng ta không biết ai phá huỷ chúng ta, ai mang chúng ta vào sự tồn tại, ai đem chúng ta ra khỏi nó. Chúng ta không biết. Chẳng phải đây là phép màu vĩ đại đang xảy ra mọi khoảnh khắc của sự tồn tại của chúng ta đó sao? Và ở đây chúng ta lũ lượt kéo đến để xem một người lấy chút ít tro ra từ tay người đó! Thiếu thông minh làm cho những thứ như vậy dường như giống phép màu. Nếu người thông minh, toàn thế giới sẽ dường như là phép màu.

Bằng không, chúng ta phải bịa ra các phương cách để chứng minh rằng Rama là Thượng đế, Krishna là Thượng đế. Tôi không nói họ vô hiện hữu. Điều tôi ngụ ý nói là ở chỗ mọi thứ trên trái đất này là Thượng đế. Mọi thứ ở đây là thiêng liêng. Không có cái gì trên trái đất này mà không là Thượng đế. Do đó, không cần chứng minh rằng Rama là Thượng đế, rằng Krishna là Thượng đế. Khi mọi thứ là Thượng đế, Rama nhất định là Thượng đế nữa. Trên thế gian này, bản thân sự tồn tại là Thượng đế. Nhưng chúng ta không chấp nhận người bình thường, đơn giản là Thượng đế, cho nên chúng ta nghĩ ra cách thức và phương tiện để chấp nhận người đó là Thượng đế. Chúng ta đặt những người này trước chúng ta như một lí tưởng và quên mọi điều về tính đặc thù phân biệt của Thượng đế. Chúng ta phải xé toạc huyền của Thượng đế khỏi ý thức của chúng ta. Chúng ta đã dựng lên các Thượng đế riêng của chúng ta, các tirthankara của chúng ta, các thần avatara của chúng ta, và chúng ta đi quanh những thứ này, vì đây là điều trí tuệ của chúng ta có thể hiểu thấu, trong khi phẩm huyền của Đạo của Lão Tử là ở bên ngoài việc hiểu của chúng ta. Tuy nhiên nhớ rằng chừng nào thời gian mà phẩm huyền về Đạo còn chưa tới bên trong việc hiểu của chúng ta, bạn vẫn chưa đi vào cổng của tôn giáo. Ngày bạn thu lấy dũng cảm và đạt tới năng lực hiểu điều này bạn sẽ có thoáng nhìn đầu tiên về ngôi đền của Thượng đế, không trước điều đó. Mọi thứ khác đều là chất liệu người làm ra. Mọi thần avataras và tirthankaras đều là sáng tạo riêng của bạn. Nếu bạn muốn đi vào trong Thượng đế, bạn bao giờ cũng phải nhớ phẩm huyền này của Đạo.

Ngài hiện diện dường như Ngài không hiện diện. Ngài vắng mặt, và vậy mà Ngài hiện diện. Nếu điều này được thường xuyên nhớ tới, nếu nó lan tràn khắp mọi hơi thở bạn lấy, những khải lộ của tôn giáo sẽ bắt đầu trong cuộc đời của bạn, và màn ảnh tôn giáo sẽ bắt đầu dâng lên, làm lộ ra sự huy hoàng mà là sự tồn tại.

 

Từ “Con đường Đạo”, T.3, Ch.4, Hiện diện vô hiện diện của Đạo

Để lại một bình luận