Thiền nói: Vẫn còn thực với tự do của bạn. Và thế thì một loại hiện hữu khác toàn bộ nảy sinh trong bạn, cái là rất không mong đợi, không thể dự đoán được. Tôn giáo, nhưng không đạo đức. Không vô đạo đức – phi luân lí: bên ngoài đạo đức, bên ngoài vô đạo đức.
Đây là chiều hướng mới mà Thiền mở vào trong sự sống. Nó hoàn toàn là thực tại tách rời trong đó bạn đã sống – đây là tách rời toàn bộ khỏi cái đó. Nó có phẩm chất mới; phẩm chất là về vô tính cách.
Đôi khi từ này gây tổn thương rất nhiều, vì chúng ta đã yêu mến từ ‘tính cách’ quá lâu. Chúng ta đã bị ước định trong nhiều thế kỉ với từ ‘tính cách’. Chúng ta nói, ‘Người đó là người có tính cách.’ Nhưng bạn có quan sát không? Người của tính cách là người chết. Người của tính cách là phân loại được, người của tính cách là dự đoán được. Người của tính cách không có tương lai, chỉ có quá khứ.
Nghe điều đó: Người của tính cách chỉ có quá khứ của người đó. Vì tính cách ngụ ý quá khứ. Người đó liên tục lặp lại quá khứ của mình, người đó là máy quay đĩa bị hỏng. Người đó liên tục lặp đi lặp lại cùng điều mãi. Người đó không còn bất kì cái gì mới hơn để nói. Người đó không có gì mới để sống, người đó không có cái gì mới để hiện hữu. Chúng ta gọi người đó là người có tính cách. Bạn có thể tin vào người đó, bạn có thể phụ thuộc vào người đó – người đó sẽ không nuốt lời hứa. Vâng, điều đó là đúng. Người đó có tiện dụng lớn, tiện dụng xã hội là lớn – nhưng người đó chết, người đó là cái máy.
Máy có tính cách; bạn có thể phụ thuộc vào chúng. Đó là lí do tại sao chúng ta sẽ loại bỏ, dần dần, mọi người và thay thế họ bằng máy. Máy là dự đoán được nhiều hơn, chúng có tính cách lớn – bạn có thể phụ thuộc vào chúng.
Ngựa không phụ thuộc được thế như xe hơi. Ngựa có một loại tính cách – ngày nào đó nó không trong tâm trạng, và ngày nào đó nó không muốn đi con đường bạn muốn đi, và ngày nào đó nó rất nổi dậy. Và ngày nào đó nó đơn giản đứng đấy và sẽ không chuyển động. Nó có hồn; bạn không thể bao giờ cũng phụ thuộc vào nó. Nhưng xe hơi không có hồn. Nó chỉ được gắn vào nhau; nó không có trung tâm. Nó đơn giản đi theo cách bạn muốn nó đi. Ngay cả bạn muốn chiếc xe lao ra khỏi mép đá, nó sẽ đi. Ngựa sẽ nói, ‘Đợi đã. Nếu ông muốn tự tử, ông tự tử đi – tôi không nhận điều đó đâu. Ông có thể nhảy. Tôi không nhảy.’ Nhưng chiếc xe sẽ không nói không, nó không có hồn để nói không. Nó không bao giờ nói có, nó không bao giờ nói không.
Đôi khi ngay cả tâm trí của nhà toán học lớn sẽ không làm việc. Nhưng máy tính liên tục làm việc hai mươi bốn giờ – hết ngày nọ tới ngày kia, hết năm nọ tới năm kia – không có vấn đề không làm việc.
Máy có tính cách, tính cách rất phụ thuộc. Và đó là điều chúng ta đã từng cố làm – đầu tiên chúng ta cố làm cho người thành máy. Chúng ta không thể thành công trong việc đó một trăm phần trăm, cho nên dần dần chúng ta bắt đầu phát minh ra máy để cho chúng có thể thay thế con người. Sớm hay muộn, con người sẽ bị thay thế ở mọi nơi. Máy sẽ làm tốt hơn nhiều, hiệu quả hơn nhiều, tin cậy hơn, nhanh hơn.
Con người có tâm trạng, vì con người có hồn. Vì con người có hồn, con người chỉ có thể là đích thực nếu con người vẫn còn không có tính cách. Tôi ngụ ý gì khi tôi nói ‘vô tính cách’? Tôi ngụ ý con người liên tục bỏ quá khứ của mình. Người đó không sống tương ứng với quá khứ của mình – đó là lí do tại sao người đó là không thể dự đoán được. Người đó sống từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc, người đó sống trong hiện tại. Người đó nhìn quanh và người đó sống, người đó thấy quanh và người đó sống, người đó cảm xung quanh và người đó sống. Người đó không có ý tưởng cố định sống thế nào; người đó chỉ có nhận biết. Cuộc sống của người đó vẫn còn là sự tuôn chảy thường hằng. Người đó có tính tự phát – đó là điều tôi ngụ ý khi tôi nói người thực là vô tính cách. Người đó có tính tự phát.
Người đó có tính đáp ứng. Nếu bạn nói cái gì đó với người đó, người đó đáp ứng lại điều đó, người đó không lặp lại lời sáo rỗng. Người đó đáp ứng với bạn, với khoảnh khắc này, với câu hỏi này, với tình huống này. Người đó không đáp ứng với tình huống đã học khác nào đó. Người đó đáp ứng với bạn, người đó nhìn vào trong bạn. Người đó không phản ứng, người đó đáp ứng; phản ứng tới từ quá khứ.
Chuyện xảy ra: một Thiền sư hỏi, ‘Bí mật của Phật là gì? Ông ấy đã chuyển giao cái gì cho Ma ha ca diếp khi ông ấy đưa cho ông này đoá hoa? Tại sao ông ấy đã nói, “Ta trao cho Ma ha ca diếp điều ta đã không có khả năng trao cho bất kì người nào khác – vì người khác chỉ có thể hiểu lời, Ma ha ca diếp có thể hiểu im lặng”?’
Hôm đó Phật tới với đoá sen trong tay. Mọi đệ tử của ông ấy nhìn và nhìn, và họ lo nghĩ và họ bắt đầu mỗi lúc một bồn chồn hơn. Ông ấy chẳng nói gì, ông ấy liên tục nhìn đoá sen. Ông ấy nhìn vào hoa sen… dường như ông ấy đã quên toàn thể hội chúng.
Nhiều phút trôi qua, và một giờ trôi qua, và thế rồi mọi người rất sốt ruột. Và thế rồi Ma ha ca diếp bắt đầu cười. Và Phật đã gọi ông này tới và ông ấy trao đoá hoa cho ông này và ông ấy nói, ‘Điều ta có thể trao qua lời, ta đã trao cho những người khác. Điều ta không thể trao qua lời, ta trao nó cho ông, Ma ha ca diếp. Giữ lấy nó cho tới khi ông tìm thấy một người có thể nhận thông điệp này trong im lặng.’
Một Thiền sư hỏi đệ tử của ông ấy, ‘Bí mật là gì? Cái gì được trao qua đoá sen? Cái gì đã xảy ra trong khoảnh khắc đó?’ Đệ tử đứng, nhảy múa, chạy mất. Và thầy nói, ‘Đúng. Đích xác đây là điều nó là vậy. ‘
Nhưng thầy khác trong cùng thiền viện tới gặp thầy này trong đêm và nói, ‘Ông không nên đồng ý sớm thế; việc đồng ý của ông là quá sớm. Tôi nghi ngờ.’
Thế là thầy đi tới đệ tử, người đã nhảy múa và với anh ta thầy đã nói, ‘Đúng, đây là nó.’ Trong đêm thầy đi tới đó và thầy hỏi cùng câu hỏi đó lần nữa: ‘Cái mà Phật đã trao trong đoá sen cho Ma ha ca diếp là gì? Cái gì có đó mà Ma ha ca diếp đã hiểu khi ông ấy mỉm cười? Nó là cái gì? Nói cho ta câu trả lời.’
Và anh thanh niên nhảy múa. Và thầy đánh anh ta thật mạnh. Và thầy nói, ‘Điều này là sai, tuyệt đối sai.’ Và đệ tử này nói, ‘Nhưng vừa mới sáng nay thầy đã nói nó là đúng.’ Và thầy nói, ‘Đúng. Buổi sáng nó đã là đúng, buổi đêm nó là sai. Ông đang lặp lại. Buổi sáng ta tưởng nó đã là đáp ứng. Giờ ta biết nó đã là phản ứng.’
Câu trả lời phải thay đổi, nếu nó là đáp ứng, mỗi lúc câu hỏi được đặt ra. Câu hỏi có thể là một, nhưng không cái gì khác là cùng như vậy. Buổi sáng mặt trời mọc và chim hót, và hội chúng, và cả nghìn sư đã ngồi trong thiền – nó đã là một loại thế giới khác toàn bộ. Và thầy đã hỏi….
Vâng, câu hỏi là một, cách phát biểu ngôn ngữ là một. Nhưng cái toàn thể đã thay đổi, động thái đã thay đổi. Ban đêm nó là khác toàn bộ, thầy một mình với đệ tử này trong phòng của anh ta. Mặt trời không còn đó trên trời, và chim không còn hót nữa, và không có ai khác để gặp. Thầy đã thay đổi. Vài giờ này, sông đã chảy, đã đi vào cánh đồng cỏ mới, đã đi vào trong lãnh thổ mới. Câu hỏi chỉ dường như là cùng câu hỏi cũ. Nhưng đệ tử này bị cố định. Anh ta nghĩ, ‘Vậy mình biết câu trả lời.’
Không, trong cuộc sống thực không ai biết câu trả lời. Trong cuộc sống thực bạn phải có tính đáp ứng. Trong cuộc sống thực bạn không thể mang câu trả lời được làm sẵn, cố định, sáo rỗng. Trong cuộc sống thực bạn phải là mở. Đệ tử kia bỏ lỡ. Người vô tính cách là người không có câu trả lời, người không có triết lí, người không có ý tưởng đặc biệt mọi sự phải thế nào. Dù chúng là bất kì cái gì, người đó vẫn còn mở. Người đó là gương – người đó phản xạ.
Bạn đã không quan sát sao? Nếu bạn tới trước gương, nếu bạn giận, gương phản xạ mặt giận của bạn, nếu bạn cười gương phản xạ mặt cười của bạn. Nếu bạn già gương phản xạ tuổi già của bạn, nếu bạn trẻ gương phản xạ tuổi trẻ của bạn. Bạn không thể nói với gương, ‘Hôm qua mày đã phản xạ tao cười, và hôm nay mày phản xạ tao giận và buồn thế? Mày ngụ ý gì? Mày không nhất quán. Mày không có bất kì tính cách nào! Tao sẽ vứt mày ra khỏi nhà.’
Gương không có tính cách. Và người thực là giống gương.
Thiền là không phán xét, Thiền là không đánh giá, Thiền không áp đặt tính cách lên bất kì người nào. Vì áp đặt tính cách, bạn sẽ cần đánh giá – tốt và xấu. Để áp đặt tính cách bạn sẽ phải làm những cái phải và không phải; bạn sẽ phải cho những lời răn. Để áp đặt tính cách bạn sẽ phải là một Moses – bạn không thể là một Bồ đề đạt ma.
Để áp đặt tính cách bạn sẽ phải tạo ra sợ và tham. Bằng không ai sẽ nghe bạn? Bạn sẽ phải là một B. F. Skinner và đối xử với người như với chuột – huấn luyện họ, trừng phạt họ, thưởng họ, để cho họ bị buộc vào trong hình mẫu nào đó. Đó là điều đã được làm cho bạn. Bố mẹ bạn đã làm điều đó, giáo dục của bạn đã làm nó, xã hội, nhà nước của bạn đã làm điều đó.
Thiền nói: bây giờ thế là đủ rồi, thoát ra khỏi nó đi. Bỏ mọi điều vô nghĩa này đi, bắt đầu là bản thân bạn. Điều đó không có nghĩa rằng Thiền bỏ bạn trong hỗn độn. Không, chính điều đối lập. Thiền, thay vì cho bạn tính cách, và lương tâm để thao túng tính cách này, cho bạn ý thức.
Khác biệt này phải được lưu ý, được nhớ. Mọi tôn giáo khác cho bạn lương tâm. Thiền cho bạn ý thức. Lương tâm ngụ ý, ‘Cái này tốt, cái kia xấu. Làm cái này, không làm cái kia.’ Ý thức đơn giản ngụ ý, ‘Là chiếc gương: phản xạ, đáp ứng.’ Đáp ứng là đúng, phản ứng là sai. Có tính đáp ứng không ngụ ý đi theo qui tắc nào đó; có tính đáp ứng ngụ ý có năng lực đáp ứng.
Từ “Thiền: con đường của nghịch lí”, t.2, ch.1