Kĩ thuật tưởng tượng tạo ra thực tại

Tưởng tượng tâm linh đồng thời bên trong và quanh ông cho tới khi toàn thể vũ trụ tâm linh hoá.

 

Thứ nhất bạn phải hiểu tưởng tượng là gì. Ngày nay nó bị kết án rất nhiều. Khoảnh khắc bạn nghe nói tới từ ‘tưởng tượng’ bạn sẽ nói điều này là vô dụng, chúng tôi muốn cái gì đó thực, không tưởng tượng. Nhưng tưởng tượng là thực tại đấy, nó là năng lực, nó là tiềm năng bên trong bạn. Bạn có thể tưởng tượng. Điều đó chỉ ra rằng con người của bạn có năng lực tưởng tượng. Năng lực này là thực tại. Qua tưởng tượng này bạn có thể phá huỷ hay bạn có thể sáng tạo bản thân bạn. Điều đó tuỳ thuộc vào bạn. Tưởng tượng là rất mạnh. Nó là sức mạnh tiềm năng.

Tưởng tượng là gì? Nó là việc lấy một thái độ sâu sắc tới mức chính thái độ đó trở thành thực tại. Chẳng hạn, bạn có thể đã nghe nói về một kĩ thuật được dùng ở Tây Tạng. Họ gọi nó là là yoga nhiệt. Đêm trời lạnh, tuyết rơi, và lama Tây Tạng sẽ đứng trần dưới trời mở. Nhiệt độ là dưới không độ. Bạn sẽ đơn giản bắt đầu chết, bạn sẽ tê cóng. Nhưng lama này thực hành một kĩ thuật đặc biệt. Kĩ thuật đó là ở chỗ người đó tưởng tượng rằng thân thể người đó là ngọn lửa cháy và người đó tưởng tượng rằng người đó vã mồ hôi – nhiệt độ nhiều tới mức người đó vã mồ hôi.. Và người đó thực tại bắt đầu vã mồ hôi mặc dầu nhiệt độ là dưới không độ và thậm chí máu cũng đông lại. Người đó bắt đầu vã mồ hôi. Cái gì đang xảy ra? Việc vã mồ hôi này là thực, thân thể ông ấy thực sự nóng – nhưng thực tại này được tạo ra qua tưởng tượng.

Bạn thử kĩ thuật đơn giản nào đó để cho bạn có thể cảm thấy cách thực tại có thể được tạo ra qua tưởng tượng. Chừng nào bạn chưa cảm thấy nó, bạn không thể làm việc được với kĩ thuật này. Chỉ là đếm mạch của bạn. Ngồi trong phòng đóng kín và đếm mạch của bạn. Và thế rồi trong năm phút chỉ tưởng tượng rằng bạn đang chạy. Tưởng tượng rằng bạn đang chạy, trời nóng, bạn lấy hơi thở sâu, bạn vã mồ hôi, và tỉ lệ mạch của bạn đang lên cao. Sau khi tưởng tượng điều này trong năm phút lại đếm mạch. Bạn sẽ thấy khác biệt: nhịp mạch của bạn sẽ cao. Bạn đã làm việc với nó chỉ bằng tưởng tượng, bạn đã không thực sự chạy.

Ở Tây Tạng cổ xưa, các sư Phật giáo thường làm bài tập chỉ qua tưởng tượng. Và những kĩ thuật đó có thể được dùng nhiều cho con người hiện đại, vì sẽ khó chạy trên phố, khó đi bộ lâu, khó tìm ra phố đơn độc. Bạn có thể chỉ nằm trên sàn trong phòng bạn và tưởng tượng rằng trong một giờ liên tục bạn đang bước đi nhanh. Chỉ trong tưởng tượng liên tục bước đi. Và bây giờ ngay cả các chuyên gia y tế cũng nói rằng hiệu quả sẽ là giống hệt như nó đã là việc bước thực. Một khi bạn được hoà điệu với tưởng tượng của bạn, thân thể bắt đầu vận hành. Bạn đã làm nhiều thứ mà không biết rằng nó là làm việc tưởng tượng của bạn. Nhiều lần bạn tạo ra nhiều bệnh qua tưởng tượng; bạn tưởng tượng rằng bây giờ bệnh này có đó, lây nhiễm, nó ở khắp mọi chỗ. Bạn đã trở nên cảm nhận, bây giờ có mọi khả năng rằng bạn sẽ ngã bệnh – và ốm đó là thực. Nhưng nó đã được tạo ra qua tưởng tượng. Tưởng tượng là một lực, năng lượng, và tâm trí đi qua nó. Và khi tâm trí đi qua nó, thân thể tuân theo.

Có lần chuyện xảy ra trong một kí túc xá đại học ở Mĩ rằng bốn sinh viên đang thử một thực nghiệm trong thôi miên. Thôi miên không là gì ngoài sức mạnh tưởng tượng. Khi bạn thôi miên một người, người đó thực sự rơi vào trong tưởng tượng sâu, và bất kì cái gì bạn gợi ý sẽ bắt đầu xảy ra. Cho nên họ đã gợi ý nhiều thứ cho cậu thanh niên mà họ thôi miên. Bốn cậu sinh viên thôi miên một cậu. Họ thử nhiều thứ và bất kì cái gì họ nói, cậu này lập tức tuân theo. Khi họ nói, “Nhảy đi,” cậu này bắt đầu nhảy. Khi họ nói, “Khóc đi,” cậu này bắt đầu khóc. Khi họ nói, “Nước mắt chảy ra từ mắt,” nước mắt bắt đầu chảy ra. Thế rồi chỉ là trò đùa họ nói, “Bây giờ nằm ra. Bạn chết!” Và cậu này nằm ra và cậu ta chết.

Điều này đã xảy ra năm một chín năm hai. Sau đó họ đã làm ra luật chống lại thôi miên ở Mĩ. Không ai được thôi miên trừ phi công trình nghiên cứu nào đó được tiến hành; trừ phi viện y tế nào đó, hay khoa tâm lí nào đó của đại học cấp quyền cho bạn. Chỉ thế thì bạn có thể thực nghiệm. Bằng không nó là nguy hiểm – cậu bé này đơn giản tin, tưởng tượng, rằng cậu ta chết, và cậu ta chết.

Nếu chết có thể xuất hiện qua tưởng tượng, sao sống không xuất hiện, sao nhiều sống hơn không xuất hiện?

Kĩ thuật này dựa trên sức mạnh của tưởng tượng. Tưởng tượng tâm linh đồng thời bên trong và quanh ông cho tới khi toàn thể vũ trụ tâm linh hoá.

Chỉ ngồi ở chỗ đơn độc nơi không ai sẽ quấy rầy bạn – một phòng đơn độc sẽ có tác dụng. Hay nếu bạn có thể kiếm được chỗ nào đó bên ngoài thì sẽ tốt hơn, vì khi bạn ở gần tự nhiên bạn tưởng tượng nhiều hơn. Khi chỉ có những thứ nhân tạo quanh bạn, bạn ít tưởng tượng hơn. Tự nhiên đang mơ, và nó cho bạn lực mơ. Một mình bạn trở nên có tính tưởng tượng nhiều hơn: đó là lí do tại sao bạn sợ khi bạn một mình. Không phải là ma sẽ gây rắc rối cho bạn, nhưng một mình tưởng tượng của bạn có thể làm việc. Và tưởng tượng của bạn có thể tạo ra ma hay bất kì cái gì bạn muốn nó. Khi bạn đi một mình, tưởng tượng của bạn có tiềm năng hơn; khi ai đó khác có đó, lí trí của bạn ở trong kiểm soát. Vì không có lí trí bạn không thể có quan hệ với người khác; với những người khác nó liên tục làm việc. Khi không có người nào ở đó, tâm trí liên tục làm việc. Khi không có người nào ở đó, tâm trí thảnh thơi và bạn hồi tưởng tới tầng tưởng tượng sâu hơn của hiện hữu. Khi bạn một mình, tưởng tượng bắt đầu vận hành.

Nhiều thực nghiệm đã được tiến hành với việc tước bỏ giác quan. Nếu một người có thể bị tước bỏ mọi kích thích giác quan – nếu bạn bị nhốt trong một phòng cách âm mà không có ánh sáng vào trong nó, không có khả năng có quan hệ với bất kì người nào khác, không ảnh trên  tường, không cái gì trong phòng mà bạn có thể có quan hệ – sau một, hai hay ba giờ giờ bạn sẽ bắt đầu có quan hệ với bản thân bạn. Bạn sẽ trở nên có tính tưởng tượng. Bạn sẽ bắt đầu nói với bản thân bạn. Bạn sẽ hỏi và bạn sẽ trả lời. Cuộc độc thoại sẽ bắt đầu trong đó bạn sẽ bị phân chia. Thế rồi đột nhiên bạn sẽ bắt đầu cảm thấy nhiều thứ mà bạn không thể hiểu được. Bạn sẽ bắt đầu nghe thấy âm thanh, nhưng phòng này là phòng cách âm, không âm thanh nào có thể vào. Bây giờ bạn đang tưởng tượng. Bạn có thể bắt đầu ngửi thấy hương thơm, nhưng không hương thơm nào có đó. Bây giờ bạn đang tưởng tượng. Sau ba mươi sáu giờ tước bỏ giác quan, bạn không thể làm bất kì phân biệt nào giữa cái gì là thực và cái gì là tưởng tượng – không thể được. Sau ba mươi sáu giờ tước bỏ giác quan, tưởng tượng trở thành thực tại và thực tại trở thành ảo vọng.

Đó là lí do tại sao những người tìm kiếm thời xưa sẽ đi lên núi, tới chỗ đơn độc, nơi họ có thể làm mất đi sự phân biệt giữa cái thực và cái không thực. Một khi phân biệt này bị mất, tưởng tượng của bạn ở trong sức mạnh đầy đủ của nó. Bây giờ bạn có thể dùng nó và bạn có thể có tính sáng tạo qua nó.

Với kĩ thuật này ngồi ở chỗ đơn độc: nếu vùng xung quanh là tự nhiên, thế thì tốt, nếu không, thế thì căn phòng cũng được. Thế rồi nhắm mắt lại và tưởng tượng lực tâm linh được cảm thấy ở bên trong và bên ngoài. Bên trong bạn dòng sông tâm thức đang chảy và nó đi ra khắp phòng, tràn ngập. Bên trong và bên ngoài, khắp xung quanh bạn, mọi nơi, tâm linh hiện diện, năng lượng hiện diện. Và đừng chỉ tưởng tượng nó trong tâm trí, bắt đầu cảm thấy bên trong thân thể – thân thể bạn sẽ bắt đầu rung động. Khi bạn cảm thấy rằng thân thể đã bắt đầu rung động, điều đó chỉ ra rằng tưởng tượng đã bắt đầu hoạt động. Cảm thấy rằng toàn thể vũ trụ dần dần được tâm linh hoá – mọi thứ, tường căn phòng, cây quanh bạn, mọi thứ đã trở thành phi vật chất, nó đã trở thành tâm linh. Vật chất không còn đó.

Điều đó cũng là thực tại. Các nhà vật lí nói rằng vật chất là ảo vọng và năng lượng là thực, và bất kì chỗ nào bạn thấy các vật rắn chắc, sự rắn chắc đó chỉ là dáng vẻ bên ngoài, nó không có đó. Khi vật lí đi sâu hơn vào trong thế giới vật chất, vật chất biến mất. Chỉ năng lượng, năng lượng phi vật chất, còn lại không thể xác định được.

Qua tưởng tượng bạn đạt tới điểm mà, bằng nỗ lực có ý thức của bạn, bạn đang phá huỷ cấu trúc của trí tuệ, hình mẫu của trí tuệ. Bạn cảm thấy rằng không có vật chất, chỉ có năng lượng, chỉ có tâm linh, bên trong và bên ngoài. Bạn sẽ sớm cảm thấy rằng bên trong và bên ngoài đã biến mất. Khi thân thể bạn trở nên tâm linh và bạn cảm thấy nó là năng lượng, thế thì không có phân biệt giữa bên trong và bên ngoài. Các biên giới bị mất đi. Bây giờ chỉ có dòng chảy, đại dương, đang rung động. Điều này cũng là cái thực – bạn đang đạt tới cái thực qua tưởng tượng.

Tưởng tượng đang làm gì? Tưởng tượng chỉ đang phá huỷ các quan niệm cũ, nội dung, các hình mẫu cũ của tâm trí, điều liên tục nhìn vào mọi thứ theo cách nào đó. Tưởng tượng đang phá huỷ chúng. Và thế thì thực tại sẽ được hiển lộ.

Tưởng tượng tâm linh đồng thời bên trong và quanh ông cho tới khi toàn thể vũ trụ tâm linh hoá – cho tới khi bạn cảm thấy rằng mọi phân biệt đã biến mất, mọi biên giới đã tan biến và vũ trụ đã trở thành chỉ là một đại dương năng lượng. Cái đó cũng là sự kiện nữa. Nhưng bạn tiến sâu hơn trong kĩ thuật này, bạn sẽ càng trở nên hoảng hơn. Bạn sẽ cảm thấy dường như bạn sắp điên. Vì sự lành mạnh của bạn bao gồm các phân biệt, lành mạnh của bạn bao gồm cái gọi là thực tại này và khi thực tại bắt đầu biến mất, đồng thời bạn sẽ cảm thấy rằng sự lành mạnh của bạn đang biến mất. Thánh nhân và người điên đi vào trong thế giới ở bên ngoài cái gọi là thực tại của chúng ta. Họ cả hai cùng đi vào, nhưng người điên rơi xuống và thánh nhân đi ra ngoài. Khác biệt là rất nhỏ nhưng nó cũng rất lớn. Nếu không có bất kì nỗ lực nào về phần của bạn, bạn làm mất tâm trí của bạn và những phân biệt, cái thực và cái không thực, bạn sẽ trở thành điên. Nhưng nếu bạn phá huỷ các quan niệm bằng nỗ lực có ý thức, bạn sẽ trở thành “siêu minh mẫn,” không phải là điên. Cái “siêu minh mẫn” đó là chiều của tôn giáo. Nó ở bên ngoài minh mẫn. Nhưng nỗ lực có ý thức là được cần. Bạn phải không là nạn nhân, bạn phải vẫn còn là người chủ. Khi chính nỗ lực của bạn đang phá huỷ các hình mẫu của tâm trí, bạn nhìn vào trong thực tại phi hình mẫu.

Thực tại phi hình mẫu là thực tại duy nhất; thực tại có hình mẫu chỉ là bị áp đặt. Đó là lí do tại sao bây giờ các nhà nhân chủng học nói rằng mọi xã hội, mọi nền văn hoá, nhìn vào cùng thực tại nhưng thấy ra thực tại khác ở đó, vì hình mẫu của họ, quan niệm của họ là khác nhau. Có nhiều nền văn hoá trên thế giới, các nền văn hoá nguyên thuỷ. Họ nhìn vào cùng thế giới theo những cách rất khác nhau; diễn giải của họ là khác toàn bộ. Thực tại là cùng một với chúng ta và với họ, nhưng hình mẫu được nhìn qua là khác. Chẳng hạn, Phật tử nói rằng không có bản chất trong thế giới, thế giới là quá trình. Không có cái gì là bản chất. Mọi thứ là trong vận động – hay thậm chí điều đó có thể không là điều đúng để nói. Vận động là thứ duy nhất. Khi chúng ta nói rằng mọi thứ là trong vận động, lần nữa lại có ảo tưởng cũ – dường như có cái gì đó đang vận động. Phật nói không có cái gì đang vận động – chỉ vận động có đó. Đó là mọi thứ có đó. Cho nên ở các nước Phật giáo như Thái Lan hay Miến Điện, họ không có bất kì từ nào tương ứng cho ‘hiện hữu’ trong ngôn ngữ của họ. Khi Kinh Thánh được dịch sang tiếng Thái Lan lần đầu tiên, việc dịch nó trở thành vấn đề vì trong Kinh Thánh có nói rằng “Thượng đế hiện hữu.” Bạn không thể nói rằng “Thượng đế hiện hữu” trong tiếng Miến Điện hay trong tiếng Thái Lan; bạn không thể nói được nó. Bất kì cái gì họ nói sẽ ngụ ý, “Thượng đế trở thành.” Mọi thứ đang vận động, không cái gì hiện hữu. Khi người Miến Điện nhìn vào thế giới, người đó nhìn vào vận động. Khi chúng ta nhìn, khi đặc biệt tâm trí phương Tây hướng Hi Lạp nhìn, không có quá trình, chỉ có chất liệu. Có những thứ chết, không vận động. Ngay cả khi bạn nhìn sông, bạn thấy sông như “hiện hữu.” Sông không có đó – sông chỉ ngụ ý chuyển động, cái gì đó thường xuyên trở thành. Và một điểm không bao giờ tới nơi bạn nói nó đã trở thành, nó là quá triình không kết thúc. Khi chúng ta nhìn cây, chúng ta thấy cây “hiện hữu”. Tiếng Miến Điện không có cái gì để nói. Họ chỉ có thể nói rằng cây đang trở thành, cây đang chảy, cây đang lớn, cây đang trong quá trình. Nếu đứa trẻ đang được nuôi lớn lên với hình mẫu này trong tâm trí – thế thì mọi thứ là quá trình – thế giới, thực tại, sẽ khác toàn bộ. Với bạn nó là khác và thực tại là một và vẫn cùng một vậy. Nhưng bạn đem tâm trí nào vào nó để diễn giải nó? Thế thì nó thay đổi.

Nhớ một điều cơ bản: chừng nào hình mẫu của tâm trí bạn chưa bị vứt đi, chừng nào bạn chưa được “giải hình mẫu”, chừng nào việc ước định của bạn chưa bị vứt đi và bạn chưa được giải ước định, bạn sẽ không biết thực tại là gì – bạn sẽ chỉ biết các cách diễn giải. Những cách diễn giải đó là công việc của tâm trí riêng của bạn. Thực tại phi hình mẫu là thực tại duy nhất. Và kĩ thuật này là để giúp bạn giải hình mẫu, giải ước định, làm tan biến khỏi tâm trí các từ đã được thu thập ở đó. Bạn không thể nhìn được vì chúng. Bất kì cái gì có vẻ thực với bạn để cho nó được tan biến đi.

Tưởng tượng năng lượng, không chất liệu, không cái gì tĩnh tại, nhưng quá trình, chuyển động, nhịp điệu, nhảy múa, và liên tục tưởng tượng cho tới khi toàn thể vũ trụ được tâm linh hoá. Nếu bạn kiên trì, trong vòng ba tháng làm việc mãnh liệt cho chỉ một giờ mỗi ngày, bạn có thể đi tới việc cảm này. Trong vòng ba tháng bạn có thể có việc cảm khác về toàn thể sự tồn tại quanh bạn. Vật chất không còn đó, chỉ có sự tồn tại phi vật chất, đại dương, như sóng, các rung động. Khi điều này xảy ra thế thì bạn biết Thượng đế là gì. Đại dương năng lượng đó là Thượng đế. Thượng đế không phải là người. Thượng đế không ở đâu đó ngồi trên ngai vàng trên trời. Toàn thể năng lượng sáng tạo của sự tồn tại là Thượng đế. Nhưng chúng ta có hình mẫu suy nghĩ. Chúng ta nói Thượng đế là đấng sáng tạo. Thượng đế không là đấng sáng tạo. Thay vì thế, Thượng đế là lực sáng tạo, chính bản thân việc sáng tạo.

Điều đã bị áp đặt đi áp đặt lại lên tâm trí chúng ta là ở đâu đó trong quá khứ, Thượng đế đã tạo ra thế giới – và ngay lúc ấy việc sáng tạo được kết thúc. Người Ki tô giáo có câu chuyện rằng trong vòng sáu ngày Thượng đế đã tạo ra thế giới và vào ngày thứ bẩy ngài nghỉ ngơi. Đó là lí do tại sao ngày thứ bẩy, chủ nhật, là ngày nghỉ. Thượng đế lấy ngày nghỉ vào ngày đó. Trong sáu ngày ngài đã tạo ra thế giới, mãi mãi và bất kì lúc nào – và kể từ đó đã không có việc sáng tạo. Từ ngày thứ sáu đã không có sáng tạo. Đây là quan niệm rất chết. Mật tông nói Thượng đế là chính tính sáng tạo. Việc sáng tạo không phải là biến cố lịch sử mà đã xảy ra đâu đó trong quá khứ – nó đang xảy ra mọi khoảnh khắc, Thượng đế đang sáng tạo mọi khoảnh khắc. Nhưng lần nữa ngôn ngữ tạo ra vấn đề và chúng ta nói, “Thượng đế đang sáng tạo.” Nó cho cảm giác rằng Thượng đế là ai đó liên tục sáng tạo. Không, chính tính sáng tạo liên tục di chuyển và di chuyển mọi khoảnh khắc, chính tính sáng tạo đó là Thượng đế. Cho nên bạn đang trong việc sáng tạo mọi khoảnh khắc. Đây là quan niệm rất sống động. Không phải là Thượng đế đã tạo ra cái gì đó và từ đó đã không có đối thoại giữa con người và Thượng đế, đã thực sự không có kết nối, không có quan hệ – ngài đã sáng tạo và sự việc được kết thúc. Mật tông nói rằng mọi khoảnh khắc bạn đang được sáng tạo, mọi khoảnh khắc bạn đang trong mối quan hệ sâu sắc với điều thiêng liêng, với cội nguồn của tính sáng tạo. Đây là quan niệm rất sống động.

Qua kĩ thuật này bạn sẽ có thoáng nhìn về lực sáng tạo, bên trong và bên ngoài. Và một khi bạn có thể cảm thấy lực sáng tạo và cái chạm, tác động của nó, bạn sẽ trở thành khác toàn bộ, bạn sẽ không bao giờ là cùng người cũ nữa. Thượng đế đã đi vào bạn. Bạn đã trở thành chỗ trú ngụ.

 

Từ “Vigyan Bhairav Mật tông – tập 4, Ch.75”