Thánh nhân do dự và tỉnh táo

Người như Lão Tử không đánh giá cao mấy bởi cái bạn ăn và cái bạn uống, hay khi nào bạn ngủ và khi nào bạn dậy. Nhấn mạnh của ông ấy là vào các sự kiện sâu hơn: bạn có đi qua cuộc sống bằng tỉnh táo và nhận biết như với người phải đi ngang qua dòng nước băng vào sáng mùa đông không? Từng hành động của bạn có được thực hiện trong thức tỉnh đầy đủ không?

Chính một sự kiện thú vị là bất kì khi nào một người trở nên nhận biết đầy đủ về những đặc trưng cố hữu của mình, cuộc sống của người đó trải qua biến đổi. Thế thì không thành vấn đề cái bạn ăn. Thay vì thế, điều trở thành quan trọng và có ý nghĩa hơn với bạn là liệu bạn có ăn trong trạng thái nhận biết đầy đủ hay không. Trong trạng thái nhận biết, điều duy nhất không tránh khỏi là cái là vô dụng rơi rụng đi theo cách riêng của nó và chỉ cái là đích thực còn lại. Không có cách nào cho cái không đích thực còn lại với người như vậy. Thực ra tính đích thực của một thứ có thể được chứng minh bởi sự kiện rằng nó còn lại với người có nhận biết đầy đủ. Nếu nó rơi đi, nó là không đích thực.

Bất kì cái gì tôi làm trong nhận biết đầy đủ đều là hành vi đức hạnh. Hành động mà tôi chắc đang trong trạng thái vô ý thức là tội lỗi. Vô nhận biết là tội; nhận biết là đức hạnh. Cho nên trong định nghĩa đầu tiên về tính thánh nhân mà Lão Tử nêu ra, ông ấy nói: “Ông ấy cực kì tỉnh táo – như người đi qua dòng nước trong mùa đông.” Ở đấy nhấn mạnh là vào phẩm chất chứ không vào hành động. Nhấn mạnh là toàn bộ vào trí huệ bên trong, thay vì vào hành vi bên ngoài của người này.

Từng người đều có cách hành động riêng của mình trong một tình huống.

Chẳng hạn, người này phải đi qua dòng nước băng vào sáng mùa đông, có thể chạy qua nó; người khác có thể chỉ lội qua; vậy mà người khác nữa có thể huýt sáo to để dẫn tâm trí anh ta qua nước lạnh; và vẫn còn người khác có thể im lặng đi qua dòng nước này. Nhưng một điều chung giữa tất cả những người này là phẩm chất tỉnh táo bên trong. Cách mỗi người thực hiện hành động này là phụ, điều được cần cho từng người là phẩm chất tỉnh táo.

Có một thiền sư nổi tiếng vào thời Lão Tử. Nhưng bởi nghề nghiệp, ông ấy đã là người giết mổ của hoàng gia. Trong ba mươi năm, người này quen mổ thịt súc vật cho các bữa ăn hoàng gia. Lão Tử bảo đệ tử của mình rằng nếu họ muốn biết người tỉnh táo giống cái gì, họ nên gặp người này. Không ai có thể tin được ông ta. Người giết súc vật – làm sao ông ta có thể tỉnh táo được?

Tuy nhiên một đệ tử tình nguyện đi tới ông ta. Anh ta thấy ông ta đã làm thịt hàng trăm con vật. Một điều là chắc chắn – ông ta đã là một chuyên gia trong việc làm của mình. Đệ tử này hỏi ông ta có thường đổi dao ông ta dùng không. Ông ta đáp, “Không bao giờ. Tôi dùng cùng con dao mà bố tôi và ông tôi đã dùng. Tôi nhận biết và tỉnh táo khi giết mổ con vật tới mức lưỡi dao đi chính xác vào giữa hai xương đặc biệt. Khi lưỡi dao đi qua giữa các xương này, nó tự động được làm sắc lên. Cho nên ông thấy đấy, chúng tôi không có vấn đề về làm cùn lưỡi dao!”

Khi người này lại hỏi chẳng lẽ ông ấy không cảm thấy cái gì khi ông ấy giết mổ con vật, ông ấy đáp, “Chỉ con bị giết thì có thể bị giết. Không có cách nào để giết con mà không thể bị giết. Con vật tôi giết là đã chết rồi. Con vật đang sống thì không thể bị phá huỷ bởi bất kì vũ khí nào.”

Ông thiền sư này đã nói cùng những lời mà Krishna đã nói trong Gita. Nhưng lời của Krishna chúng ta có thể hiểu thấu; không phải như vậy với những lời ông thiền sư này nói. Đệ tử của Lão Tử quay về và nói với ông ấy, “Người này nói những lời của trí huệ, nhưng hành động của ông ta không chứng thực cho lời của ông ta. Có lẽ ông ta chỉ nói.”

Lão Tử bảo anh ta, “Mang kiếm của ông đi và chặt tay ông hàng thịt.”

Người này đi như anh ta được bảo. Ngay khi anh ta giơ kiếm lên, ông hàng thịt dừng anh ta lại nói, “Cẩn thận chém đích xác vào khớp nối, nếu không kiếm sẽ mất sắc. Ông là người mới học. Do đó ta cảnh báo ông.” Chiếc kiếm rơi khỏi tay đệ tử này. Anh ta bỏ đi. Ông thiền sư này đã tỉnh táo không chỉ khi ông ấy mổ thịt con vật. Khi có liên quan tới tay riêng của ông ấy, ông ấy đã tỉnh táo tương đương.

Nhấn mạnh của Lão Tử là vào tỉnh táo và không hành động. Là tỉnh giác là phẩm chất bên trong, việc xảy ra bên trong, cảm nhận bên trong, việc thức tỉnh. Hành động thuộc về bên ngoài; chúng có thể khác. Ngay cả hai thánh nhân cũng không hành xử giống nhau – họ không thể thế được. Nhưng phẩm chất bên trong của tỉnh thức của ngay cả hàng nghìn thánh nhân là một.

Hai kẻ ngu có thể hành xử giống nhau. Thậm chí cả nghìn kẻ ngu có thể biểu lộ cùng một hành vi. Thức tỉnh bên trong của họ không như nhau. Điều đó giống thế này. Chuyển động của tiểu đoàn lính là đồng đều. Khi được lệnh quay phải, cả nghìn người sẽ quay phải đồng thời. Khi được lệnh quay trái, họ sẽ lập tức quay sang trái. Hành động của một người lính đã được làm đồng đều như vậy với phần còn lại của đội quân tới mức người đó mất đi mọi tính cá nhân của mình. Trí tuệ của anh ta giảm đi theo cùng mức độ mà sự đồng đều của hành động tăng lên; điều này chỉ là tự nhiên. Người lính phải không dùng trí tuệ của mình. Nếu người đó dùng trí tuệ của mình, chắc sẽ không có chiến tranh trên thế giới. Cho nên người lính không được yêu cầu dùng thông minh của mình. Càng ít thông minh, người lính càng là tốt hơn, vâng lời hơn, đồng đều hơn.

Một mặt chúng ta thấy một tiểu đoàn lính hành động như một người. Mặt khác chúng ta thấy hai thánh nhân, cho dù họ có thể ở cùng nhau, vẫn hành xử khác biệt. Phật và Mahavira sẽ không hành động theo cùng cách thức cho dù họ tình cờ ở trong cùng tình huống nhưng tỉnh táo bên trong sẽ là như nhau trong cả hai người.

Các thánh nhân nổi tiếng bởi sự tỉnh táo của họ, trong khi người thường được nhận ra bằng hành động của họ. Vì chúng ta được nhận ra bởi hành động của chúng ta, chúng ta có xu hướng nhận ra thánh nhân theo cách tương tự. Thế thì khó khăn nảy sinh. Đây là lí do đằng sau mọi tranh luận sôi nổi liên quan tới thánh nhân. Làm sao người ta nhìn Mahavira là thánh nhân, nhìn Phật là thánh nhân? Và làm sao người tôn thờ Phật lại tôn Krishna là thánh nhân? Hành động của họ là khác nhau thế! Chúng ta không có cách nào đặt Mahavira, Krishna và Christ vào cùng phân loại vì chúng ta phán xét một người bởi hành động của người đó. Đó là khó khăn.

Cũng vậy, từng người chúng ta có quan niệm khác nhau liên quan tới hành vi. Nếu tôi được sinh ra trong gia đình người Jaina, tâm trí tôi sẽ bị định kiến bởi tư cách đạo đức của Mahavira. Thế thì tôi sẽ đi khắp thế giới với chuẩn mực hành vi này. Jesus sẽ không khớp vào trong quan niệm hành vi của tôi, cho nên tôi sẽ nghĩ rằng Jesus không phải là người trí huệ. Người Jaina không tin rằng Phật đã đạt tới hiểu biết tối thượng, vì nếu ông ấy đã đạt tới, ông ấy chắc đã hành xử như Mahavira.

Một nhà tư tưởng sâu sắc của người Jaina đã viết một cuốn sách, trong đó, trong mọi đức tin tốt lành, ông ta đã cố gắng rất nhiều để chứng minh rằng Mahavira và Phật đã mangcùng thông điệp cho thế giới. Nhưng tiêu đề của cuốn sách của ông ta là “Bhagwan Mahavira và Mahatma Phật.” Khi tôi hỏi ông ấy tại sao có khác biệt này, ông ta đáp, “Phật đã không đạt tới trạng thái của Mahavira. Do đó, nhiều nhất, chúng ta có thể gọi ông ấy là Mahatma. Chúng tôi không thể đặt ông ấy vào phân loại về Bhagwan, cùng với Mahavira.” Tôi hỏi ông ấy liệu ông ấy đã làm phân biệt này một cách có chủ ý không. Ông ta đáp, “Không, nhưng vì ông hỏi, điều đó tới tâm trí tôi.”

Vậy, quan niệm của chúng ta bị nhào nặn. Mahavira đứng trần trụi. Người coi Mahavira là Bhagwan nghĩ rằng Phật phải vẫn bị gắn bó với quần áo của ông ấy. Điều này chỉ là tự nhiên. Nếu ông ấy thậm chí không thể từ bỏ được quần áo, ông ấy còn có thể từ bỏ cái gì khác? Cho nên Phật có thể được coi như thiện nhân, mahatma, thánh nhân, nhưng ông ấy không thể được so sánh với Mahavira.

Cùng luận cứ này là áp dụng được cho Krishna hay Mohammed hay Jesus. Cùng định kiến này tồn tại cho người Ki tô giáo. Người đó cảm thấy rằng duy nhất Christ có thể hi sinh bản thân ông ấy vì thế gian. Mahavira đã hi sinh cái gì? Chẳng cái gì cả. Cho nên dù Mahavira vĩ đại thế nào, ông ấy là người ích kỉ. Ông ấy đã thiền vì cái ngã riêng của ông ấy; ông ấy đã tìm giải thoát cho một mình ông ấy. Bất kì cái gì ông ấy đã đạt tới, ông ấy đã đạt tới vì bản thân ông ấy. Christ là thực thể khác toàn bộ. Ông ấy đã từ bỏ chính mạng sống của mình cho nhân loại. Ông ấy đã tự mình chịu khổ bị treo trên cây chữ thập vì hạnh phúc của con người. Do đó, người đi theo Christ thấy rằng Mahavira và Phật đã không phục vụ ai ngoại trừ bản thân họ; và điều này, theo người đó, là ích kỉ sâu. Người không gạt bỏ ích kỉ của mình, làm sao người đó có thể gạt bỏ được bản ngã của mình? Người Ki tô giáo tin rằng chỉ người đã gạt sang bên mọi mối quan tâm về cái ngã của mình và hi sinh bản thân mình trong sự quan tâm tới con người mới có thể trở thành vô ngã.

Người đi theo Mahavira sẽ nói, “Cây chữ thập là kết quả của hành động quá khứ nào đó. Jesus phải đã phạm phải tội nào đó trong kiếp quá khứ của ông ấy vì điều đó ông ấy phải bị treo lên cây chữ thập. Và đây là Mahavira. Ngay cả gai cũng không dám đâm vào ông ấy!”

Người Jaina tin rằng khi Mahavira bước đi, ngay cả gai dựng đứng cũng nằm xẹp ngang trên đất. Làm sao thế giới dám châm chích chừng nấy để làm đau cho người thánh thiện và đức hạnh thế?

Đây là các kiểu hành vi và hạnh kiểm theo đó chúng ta được nhào nặn; và mọi vấn đề bắt đầu từ chúng. Từng người trong chúng ta phác hoạ ra khung hạnh kiểm của chúng ta quanh thánh nhân nào đó này khác. Khung hạnh kiểm này sẽ không bao giờ phù hợp với bất kì thánh nhân nào khác. Thế thì từng người trong chúng ta bênh vực cho chọn lựa riêng của chúng ta và loại trừ mọi thứ khác. Và do vậy, chúng ta trở nên nghèo và khổ trong tinh thần.

Lão Tử không thảo luận về hạnh kiểm bên ngoài chút nào. Ông ấy chỉ nói về những thứ bên trong. Nếu Mahavira chọn đi trần trụi và nếu Phật chọn mặc quần áo, điều đó không tạo ra khác biệt gì giữa hai người này. Phật tỉnh táo bên trong quần áo như Mahavira không quần áo. Nếu Mahavira tỉnh táo trong thiền về cái ngã, Jesus có tính quan sát và thức tỉnh trong thiền của ông ấy về toàn thế giới.

Phẩm chất bên trong này của sự tỉnh táo là điều có giá trị nhất. Nếu phẩm chất này bị thiếu, mọi tính ích kỉ về lòng vị tha là không liên quan. Nếu phẩm chất này hiện diện bên trong một người, tính tư lợi và phi tư lợi của người đó là đức hạnh tương đương. Nếu tôi, trong sự mù của tôi, đặt ra việc phục vụ người khác, điều đó là xấu như là ích kỉ mù quáng. Không phải là tư lợi là xấu và phi tư lợi là tốt. Là mù là xấu; là tỉnh táo là tốt.

Hiểu điều này cho rõ, vì rất nhiều thứ phụ thuộc vào điều này. Cách nghĩ của chúng ta, cách sống của chúng ta và mọi đáp ứng của chúng ta phụ thuộc vào điều này. Điều quan trọng là ở chỗ cái ‘bên trong’ chứ không phải là cái bên ngoài. Hành động bên ngoài hiện hữu nhưng là cái bóng của trạng thái bên trong chúng ta. Cái bóng nhất định là khác, vì từng cá nhân là khác.

Meera múa. Phật đã không thể múa cho dù ông ấy thử. Mahavira múa chắc đã là nực cười. Nhưng tuy nhiên Meera tỉnh táo trong hành động múa của cô ấy như Mahavira trong thiền im lặng của ông ấy. Người sùng kính về Meera chắc sẽ nói; “Mahavira là khô khan và nhạt nhẽo làm sao – như gốc cây! Không có một lá xanh nào trong đời ông ấy. Không hoa nở, không chim hót; không có hương thơm quanh ông ấy. Ông ấy là chết với thế giới bên ngoài. Nhìn Meera mà xem, nghe âm thanh của các vòng chân của cô ấy, giai điệu của bài ca yêu thương của cô ấy, nhạc điệu của đàn Veena của cô ấy! Sự sống nổi bật trong mọi niềm vui huy hoàng của nó!”

Nhưng người đi theo Mahavira sẽ nói, “Sùng kính của Meera có vị của ham muốn và yêu. Việc thở dài và đặt hi vọng vào Krishna là dấu hiệu của tâm trí trăn trở và bất hạnh. Ham muốn này về Krishna là khao khát về đam mê. Tại sao cô ấy phải kêu khóc, ‘Khi nào ngài sẽ tới, hỡi chúa tể? Giường của tôi trống rỗng không có ngài!’ Cái gì khác là có thể ngoài việc đổ tràn ra các ham muốn; những ham muốn bị kìm nén? Đây không là gì ngoài ham muốn dưới dạng lời cầu nguyện.”

Nếu chúng ta coi hạnh kiểm là rất quan trọng, và là yêu cầu tiên quyết không tránh khỏi đầu tiên, chúng ta sẽ đánh giá đúng cho một thánh nhân nhưng chúng ta sẽ đánh giá không đúng cho mọi thánh nhân còn lại của thế giới này. Và đây là điều đang xảy ra mọi ngày. Chừng nào chúng ta chưa chấp nhận cái ngã bên trong và nhận ra giá trị của nó, chúng ta sẽ không có khả năng hiểu đa dạng thánh nhân xuất hiện trên thế giới này.

Lão Tử quan tâm tới các phẩm chất bên trong của một người. Ông ấy nói: “Người đó cực kì tỉnh táo và thức tỉnh rộng, như người đi qua dòng nước trong mùa lạnh. Bên trong người đó là ngọn lửa sáng, tỉnh táo và tỉnh giác.”

Do dự dường sợ mắt ngó bốn bên.” Đây là lời kinh vô giá. Họ bao giờ cũng do dự, như người cảm thấy nguy hiểm khắp xung quanh. Chúng ta bình thường sẽ cảm thấy rằng thánh nhân sẽ phải cương quyết, ông ấy phải là mạnh mẽ theo chủ định, nhưng Lão Tử nói điều đối lập. Ông ấy nói rằng thánh nhân là do dự. Điều này là khó hiểu vì chúng ta không có cảm nhận sâu về sự sống. Chúng ta hãy cố hiểu lời kinh này.

Một người nói, “Tôi đã quyết tâm vững chắc không bao giờ nói dối nữa.” Người đó làm ra quyết tâm này chống lại ai? Chống lại cái ngã riêng của người đó. Nhu cầu ở đâu cho sự cứng nhắc nghiêm ngặt như vậy? Vì người đó biết rằng kẻ nói dối bên trong người đó là mạnh hơn người đó. Nếu người đó không cứng rắn với mình, người đó nhất định nói dối. Cho nên người đó nói rằng người đó đã nguyện mạnh mẽ, và lời thề càng mạnh, nó càng sớm bị phá vỡ. Lời nguyện của người đó càng dễ tan vỡ, người đó càng quyết tâm hơn; nhưng người đó nâng phòng thủ của mình lên để chống lại ai? Người mà bên trong người đó cái đối lập không còn tồn tại thì không có nhu cầu về lời nguyện và lời thề.

Chúng ta lấy lời nguyện chống lại cái đối lập nằm ẩn bên trong chúng ta. Tôi nguyện không tạo chỗ thoát cho giận, vì tôi biết rằng giận cư ngụ trong tôi. Tôi nguyện không mê đắm trong dục, vì tôi biết ham muốn dục nằm ẩn bên trong tôi. Tôi thề là vô dục vì tôi biết rằng ham muốn dục là ở bên trong tôi và tôi thề kìm nén nó, tôi phải rất kiên quyết. Và do vậy tôi tiếp tục kìm nén mọi xu hướng đối lập bên trong tôi. Nhưng với những người bên trong không có khuynh hướng đối lập để quyết tâm chống lại thì sao? Họ chắc chắn hiện hữu mà không có bất kì quyết tâm nào. Đừng coi điều này là ngụ ý rằng họ bao giờ cũng dao động, hay rằng họ không có dũng cảm và do đó do dự. Họ là bạo dạn tới mức họ không có nhu cầu quyết tâm.

Mahavira đã không dậy sớm mỗi sáng và không quyết tâm tu luyện bất bạo hành. Bất bạo hành đã là tự nhiên với ông ấy tới mức nó không yêu cầu quyết tâm về phần ông ấy. Nếu như ông ấy bị lay khỏi giấc ngủ, ngay cả thế bất bạo hành chắc sẽ hiện diện trong ông ấy. Do đó, Mahavira đã không phải lấy bất kì lời nguyện nào.

Phật không bao giờ chuẩn bị cho bản thân ông ấy về các câu hỏi ông ấy có thể bị hỏi. Điều đó chỉ cần khi một người không có năng lực đáp ứng. Thế thì người đó phải chuẩn bị cho bản thân mình chống lại mọi việc bất ngờ – người đó sẽ trả lời thế nào khi người đó được hỏi thế này thế nọ. Nhưng người có tâm trí tỉnh táo không có quyết tâm. Người đó được hỏi và câu trả lời tới; không có quyết tâm từ trước.

Bernard Shaw được một người bạn hỏi ông ấy đã quyết định nói gì tại cuộc họp ông ấy sẽ dự. Shaw đáp, “Vì chính tôi là người quyết định, và tôi là người nói, tôi sẽ quyết định nói gì vào lúc tôi được mời làm như vậy. Nếu ai đó khác đã quyết định và tôi phải nói, thế thì việc chuẩn bị sẽ là cần thiết. Vì tất cả là tuỳ ở tôi, tôi sẽ quyết định vào đúng khoảnh khắc.”

Người bạn khuyên ông ấy rằng đi tới có chuẩn bị bao giờ cũng tốt hơn, để tránh sai và lỗi. Người này là đúng. Nếu người đó phải nói, người đó chắc sẽ có khả năng nói chỉ nếu người đó đã chuẩn bị bài nói của mình. Và điều buồn cười với việc đó là ở chỗ người như vậy luôn luôn phạm sai lầm. Nhưng người nói một cách tuỳ ứng không bao giờ có thể lóng ngóng hay nói sai, vì người đó nói điều tới từ bên trong.

Do dự ngụ ý: Tôi được chuẩn bị để chấp nhận bất kì cái gì khoảnh khắc đem tới. Tôi sẽ đáp ứng với khoảnh khắc một cách tốt nhất tôi có thể làm và sẽ không chuẩn bị trước. Tôi sẽ không quyết định hôm nay về cách tôi định sống ngày mai. Người quyết định hôm nay về cách mình sẽ sống ngày mai giết chết ngày mai của mình vào hôm nay. Tương lai của người đó trở thành quá khứ. Nếu tôi quyết định từng lời tôi nói từ trước, tôi trở thành cái máy chứ không là người. Người làm quyết định từ trước là người không tin tưởng vào bản thân mình. Người như vậy chỉ có thể sống bằng những quyết định làm từ trước.

Những người đầy tin tưởng vào bản thân họ không làm quyết định. Từng bước họ tự mình làm quyết định. Khi Jesus sắp bị đóng đinh, một trong các đệ tử của ông ấy hỏi ông ấy, “Thầy sẽ làm gì khi thầy bị đóng đinh?”

Jesus đáp, “Ít nhất để họ đưa ta lên cây chữ thập. Ta không có ý tưởng ta sẽ làm gì. Ta sẽ chứng kiến điều xảy ra như ông chứng kiến, cho nên làm sao ta có thể quyết định được bây giờ?”

Tâm trí yếu của chúng ta quyết định trước khi nó hành động. Nhớ, chỉ tâm trí yếu làm quyết định. Chính niềm tin chung là tâm trí mạnh là tâm trí quyết định. Điều đó dường như nó phải vậy. Nếu tâm trí yếu làm quyết định, quyết định đó sẽ mạnh hơn những tâm trí yếu mà không làm quyết định. Nhưng Lão Tử nói về các thánh nhân mà tâm trí không còn nữa. Không có vấn đề về tâm trí yếu. Không có tâm trí chút nào! Tính yếu vẫn còn lại chừng nào tâm trí vẫn còn lại. Tâm trí là tính yếu kém.

Thánh nhân đã quyết định về cái gì? Không cái gì. Họ sống từng khoảnh khắc khi nó tới; họ sống từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc. Không có dự liệu cho khoảnh khắc sắp tới.

Có một lời cầu nguyện nổi tiếng của Jesus mà ông ấy nói, “Xin cho chúng con bánh mì thường ngày hôm nay.” Jesus nói với Trời cho ông ấy bánh mì cho ngày đó; thế là đủ. Tại sao ông ấy phải lo nghĩ về ngày mai? Hôm nay ngụ ý bây giờ, khoảnh khắc này; khoảnh khắc này là đủ. Jesus bao giờ cũng do dự. Ông ấy không có quyết định vì ông ấy có cái ngã riêng của ông ấy bên trong ông ấy. Những người không sống với cái ngã của họ chỉ có thể sống bằng các quyết định.

 

Từ “Con đường Đạo”, T.4, Ch.12 Dấu hiệu thánh nhân: người tỉnh táo và do dự, vô ngã và vui đùa

Để lại một bình luận