Chết của Socrates là cực kì đẹp, chết của Phật là cực kì đẹp. Ngày Phật chết, buổi sáng ông ấy tập hợn mọi đệ tử lại, mọi sannyasins, và bảo họ, “Bây giờ ngày cuối cùng đã tới, con thuyền của ta đã tới và ta phải ra đi. Và đây đã là cuộc hành trình đẹp, sự cùng nhau đẹp. Nếu các ông có bất kì câu hỏi nào để hỏi, các ông có thể hỏi chúng, vì ta sẽ không sẵn có cho các ông về thân thể thêm nữa.”
Im lặng lớn trùm lên các đệ tử, nỗi buồn lớn. Và Phật cười và nói, “Đừng buồn, vì đó là điều ta đã từng dạy các ông lặp đi lặp lại – mọi thứ bắt đầu, rồi kết thúc. Giờ để ta dạy các ông bằng cái chết của ta nữa. Như ta đã từng dạy các ông suốt cuộc đời ta, để ta dạy các ông qua cái chết của ta nữa.”
Không ai có thể thu lấy dũng cảm để hỏi câu hỏi. Toàn thể cuộc đời mình họ đã hỏi hàng nghìn và hàng nghìn câu hỏi, và đây không phải là khoảnh khắc để hỏi bất kì cái gì; họ đã không trong tâm trạng hỏi, họ đã kêu và khóc.
Thế là Phật nói, “Tạm biệt nhé. Nếu các ông không có bất kì câu hỏi nào thế thì ta sẽ đi.” Ông ấy ngồi dưới cây với mắt nhắm và ông ấy biến mất khỏi thân thể. Trong truyền thống Phật giáo, điều này được gọi là “thiền thứ nhất” – biến mất khỏi thân thể. Nó ngụ ý không đồng nhất bản thân bạn với thân thể, biết một cách toàn bộ và tuyệt đối, “Mình không là thân thể.”
Câu hỏi nhất định nảy sinh trong tâm trí của bạn: Phật mà không biết điều đó từ trước sao? Ông ấy đã biết nó từ trước rồi, nhưng người như Phật thì phải tạo ra phương cách nào đó để cho chỉ chút ít của ông ấy vẫn còn được kết nối với thân thể. Bằng không ông ấy chắc đã chết từ lâu trước đây – bốn mươi hai năm trước ông ấy chắc đã chết rồi. Ngày chứng ngộ của ông ấy xảy ra, ông ấy chắc đã chết. Từ từ bi mà ông ấy đã tạo ra ham muốn, ham muốn giúp mọi người. Đó là ham muốn, và nó giữ bạn được gắn với thân thể.
Ông ấy đã tạo ra ham muốn giúp mọi người. “Bất kì cái gì mình đã biết, mình phải chia sẻ.” Nếu bạn muốn chia sẻ, bạn sẽ phải dùng tâm trí và thân thể. Phần nhỏ đó vẫn còn được gắn lại.
Bây giờ ông ấy cắt ngay cả chiếc rễ nhỏ đó trong thân thể; ông ấy trở nên không bị đồng nhất với thân thể. Thiền thứ nhất hoàn thành, thân thể bị bỏ đi. Thế rồi thiền thứ hai: tâm trí bị bỏ đi. Ông ấy đã bỏ tâm trí từ lâu trước đây; như người chủ nó đã bị bỏ đi, nhưng như người hầu nó vẫn được dùng. Bây giờ thậm chí nó không còn được cần như người hầu, nó được bỏ đi hoàn toàn, bị bỏ toàn bộ.
Và thế rồi thiền thứ ba: ông ấy bỏ tim của ông ấy. Nó đã được cần cho tới giờ, ông ấy đã từng hoạt động qua tim; bằng không từ bi chắc đã là không thể được. Ông ấy đã từng là tim; giờ ông ấy ngắt ra khỏi tim.
Khi ba thiền này được hoàn thành, điều thứ tư xảy ra. Ông ấy không còn là người, không còn là hình thể, không còn là sóng. Ông ấy biến mất trong đại dương. Ông ấy trở thành cái ông ấy bao giờ cũng là, ông ấy trở thành cái mà ông ấy đã biết từ bốn mươi hai năm trước nhưng bằng cách nào đó đã được xoay xở để làm trễ lại, để giúp mọi người.
Chết của ông ấy là thực nghiệm vô cùng trong thiền. Và chuyện kể rằng nhiều người đã hiện diện ở đó chỉ để xem ông ấy đi, dần dần, dần dần…. Đầu tiên họ thấy thân thể không còn là như cũ; cái gì đó đã xảy ra, sự sống động đã biến mất khỏi thân thể. Thân thể có đó, nhưng như tượng. Những người nhạy cảm hơn, có tính thiền hơn, họ lập tức thấy rằng giờ tâm trí đã bị bỏ đi và không có tâm trí bên trong. Những người thậm chí nhạy cảm hơn có thể thấy rằng tim đã được kết thúc. Và những người thực sự trên bờ phật tính, thấy Phật biến mất, họ cũng đã biến mất.
Nhiều đệ tử đã trở nên chứng ngộ vào ngày Phật chết, nhiều người – chỉ xem việc chết của ông ấy. Họ đã quan sát việc sống của ông ấy, họ đã thấy cuộc sống của ông ấy, nhưng giờ cao trào tới, cực đỉnh. Họ thấy ông ấy đang chết cái chết đẹp thế, duyên dáng thế, có tính thiền thế… nhìn điều đó, nhiều người được thức tỉnh.
Hiện hữu cùng phật, sống cùng phật, được tình yêu của ông ấy trút xuống, là phúc lành. Nhưng phúc lành lớn nhất là hiện diện khi phật chết. Bạn có thể đơn giản cưỡi lên năng lượng đó, bạn có thể đơn giản lấy bước nhảy lượng tử bằng năng lượng đó – vì phật đang biến mất, và nếu yêu của bạn là lớn và kết nối của bạn là sâu, điều đó nhất định xảy ra.
Điều đó sẽ xảy ra cho nhiều người trong các sannyasin của tôi. Ngày tôi biến mất, nhiều người trong các bạn sẽ biến mất cùng tôi.
Vivek nói đi nói lại với tôi, “Tôi không muốn sống một khoảnh khắc khi thầy ra đi.” Và tôi nói với cô ấy, “Đừng lo. Cho dù bạn muốn sống, bạn sẽ không có khả năng sống.” Mới hôm nọ, Deeksha đã nói với Vivek, “Một khi Osho mất, tôi mất.” Điều đó là đúng. Nhưng điều này không chỉ đúng với Vivek và Deeksha, điều này là đúng với nhiều người trong các bạn. Và điều này không phải là cái gì đó mà bạn phải làm, nó sẽ đơn giản xảy ra theo cách riêng của nó. Nó sẽ là việc xảy ra. Nhưng điều đó là có thể chỉ nếu bạn cho phép tin cậy toàn bộ xảy ra.
Khi tôi còn sống, nếu bạn cho phép tin cậy toàn bộ xảy ra, thế thì bạn có thể đi cùng tôi trong cái chết của tôi nữa. Nhưng có chút ít hoài nghi, bạn sẽ nghĩ, “Nhưng tôi vẫn còn chưa làm nhiều thứ và tôi phải sống cuộc sống của tôi. Tôi biết rằng thầy ra đi là chuyện buồn, và tôi biết nếu thầy còn sống là tốt hơn rất nhiều, nhưng tôi có nhiều điều cần làm, tôi phải sống cuộc sống của tôi”… và cả nghìn lẻ một ham muốn. Nếu có chút ít hoài nghi, điều đó sẽ tạo ra cả nghìn lẻ một ham muốn. Nhưng nếu không có hoài nghi, thế thì cái chết của thầy là kinh nghiệm giải thoát nhất đã từng xảy ra trên trái đất này.
Phật đã rất may mắn có các đệ tử lớn. Jesus không may mắn được thế, đệ tử của ông ấy là người hèn. Khi ông ấy sắp chết tất cả họ trốn hết. Khi ông ấy ở trên cây chữ thập họ đã trốn xa nhiều dặm, với sợ rằng họ có thể bị bắt. Sau ba ngày, khi đá được bỏ ra từ phía trước mồ nơi thân thể ông ấy được giữ, đã không có một tông đồ nào; chỉ có mỗi Mary Magdalene gái mãi dâm, và Mary khác – hai người đàn bà – đã thu lấy dũng cảm.
Các đệ tử sợ rằng nếu họ đi tới xem điều đã xảy ra cho thân thể của thầy hay đưa thân thể của thầy xuống, họ có thể bị bắt. Duy nhất hai người đàn bà có đủ tình yêu. Khi thân thể của Jesus được hạ xuống từ cây chữ thập, thế nữa, ba người đàn bà đã mang thân thể này xuống. Tất cả các tông đồ vĩ đại kia đã không có đó.
Jesus đã không may mắn lắm. Và lí do là rõ ràng: ông ấy đã bắt đầu cái gì đó mới. Ở phương Đông, chư phật đã tồn tại trong hàng triệu năm. Quan niệm phương Tây về thời gian là không đúng, quan niệm phương Tây về thời gian là rất nhỏ, và chính vì Ki tô giáo mà nó là rất nhỏ. Các nhà thượng đế học Ki tô giáo thậm chí đã tính toán khi nào thế giới được tạo ra – hai mươi ba tháng ba. Tôi tự hỏi, sao không hai mươi mốt? Thượng đế bỏ lỡ chỉ hai ngày! Vào ngày hai mươi ba tháng ba, bốn nghìn linh bốn năm trước Christ, thế giới đã được tạo ra. Một ý tưởng rất nhỏ về thời gian.
Thế giới đã tồn tại trong hàng triệu năm. Bây giờ các nhà khoa học đang tới ngày càng gần hơn với quan niệm phương Đông về thời gian. Ở phương Đông, chư phật đã tồn tại trong hàng nghìn và hàng nghìn năm, cho nên chúng ta biết cách hiện hữu cùng phật – cách sống cùng ông ấy, cách tin cậy ông ấy, và cách hiện hữu cùng ông ấy khi ông ấy sắp chết, và cách chết cùng ông ấy.
Nhiều điều về nó đã bị lãng quên, do ưu đãi của Ki tô giáo và giáo dục phương Tây. Người Ấn Độ không phải là người Ấn Độ chút nào. Rất khó tìm ra người Ấn Độ ở Ấn Độ, gần như không thể được. Thỉnh thoảng tôi bắt gặp một người Ấn Độ. Đôi khi chuyện xảy ra là người tới từ các nước xa xôi có nhiều tính Ấn Độ hơn cái gọi là người Ấn Độ. Ba trăm năm của sự chi phối của phương Tây và giáo dục phương Tây đã làm cho tâm trí Ấn Độ hoàn toàn bị mất hướng.
Tâm trí phương Tây đang đi tới ngày một gần việc hiểu chư phật nhiều hơn bản thân tâm trí phương Đông hiểu. Và lí do là ở chỗ phương Tây phát chán với công nghệ và khoa học, đang trở nên ngày càng vô vọng hơn, và đã thấy rằng điều khoa học hứa hẹn, nó đã không có khả năng hoàn thành. Thực ra nó đã thấy rằng mọi cách mạng đều thất bại. Và giờ chỉ có một cách mạng còn lại – cái bên trong, cách mạng của cá nhân, cách mạng được mang tới bởi biến đổi bên trong.
Người Ấn Độ vẫn đang hi vọng rằng với chút ít công nghệ tốt hơn, chút ít cai quản tốt hơn, chút ít tiền thêm, chút ít sản xuất thêm, mọi sự sẽ ổn thoả hoàn hảo. Tâm trí Ấn Độ đang hi vọng, nó rất vật chất. Tâm trí Ấn Độ hiện đại có tính vật chất hơn tâm trí của người của bất kì nước nào khác. Các nước duy vật chán với chủ nghĩa duy vật. Nó đã thất bại; họ bị thất vọng và vỡ mộng.
Cho nên để tôi nói cho bạn, các sannyasin của tôi nhiều tính Ấn Độ hơn. Họ có thể là người Đức, họ có thể là người Na Uy, họ có thể là người Hà Lan, họ có thể là người Italy, người Pháp, người Anh, người Mĩ, người Nga, người Czechs, người Nhật Bản, người Trung Quốc, nhưng họ nhiều tính Ấn Độ hơn nhiều.
Các nhà báo tới đi tới lại và hỏi, “Tại sao chúng tôi không thấy nhiều người Ấn Độ ở đây?” Và tôi nói, “Họ toàn là người Ấn Độ đấy! Chỉ có vài người nước ngoài thôi – chỉ vài người mà bạn nghĩ là người Ấn Độ, chỉ những người đó là người nước ngoài; còn lại tất cả họ là người Ấn Độ.”
Là người Ấn Độ chẳng liên quan gì tới địa lí, nó có cái gì đó liên quan tới cách tiếp cận bên trong hướng tới thực tại. Ấn Độ hiện đại đã quên mất con đường của Phật, và đã quên cách sống với chư phật.
Tôi đang cố làm lộ ra kho báu đó cho bạn lần nữa. Để nó chìm sâu vào trong tim bạn. Nguyên lí đầu tiên là nghệ thuật sống. Là khẳng định sự sống đi. Sự sống là đồng nghĩa với Thượng đế. Bạn có thể bỏ từ Thượng đế – sự sống là Thượng đế. Sống với sự tôn kính, với kính trọng lớn và lòng biết ơn. Bạn đã không kiếm sự sống này, nó đã là món quà vô cùng từ cõi bên kia. Cảm thấy cám ơn và cầu nguyện đi, và nhận nhiều miếng ăn nhất có thể được và nhai nó thật kĩ và tiêu hoá nó thật kĩ.
Làm cuộc sống của bạn thành kinh nghiệm thẩm mĩ. Và không mấy thứ được cần để làm cho nó thành kinh nghiệm thẩm mĩ; chỉ tâm thức thẩm mĩ là được cần, hồn nhạy cảm. Trở nên nhạy cảm hơn, nhiều tính cảm giác hơn, và bạn sẽ trở nên tâm linh nhiều hơn.
Các tu sĩ gần như đã đầu độc thân thể bạn vào trạng thái chết. Bạn đang mang thân thể liệt và tâm trí liệt và hồn liệt – bạn đang đi trên nạng. Vứt mọi cái nạng đó đi! Cho dù bạn phải ngã và bò trên đất, điều đó là tốt hơn bám lấy nạng.
Và trải nghiệm sự sống theo mọi cách có thể – tốt-xấu, đắng-ngọt, tối-sáng, hè-đông. Trải nghiệm mọi nhị nguyên. Không sợ việc trải nghiệm, vì bạn càng có kinh nghiệm, bạn càng trở nên chín chắn hơn. Tìm mọi phương án có thể, đi theo mọi hướng, là người lang thang, kẻ lêu lổng của thế giới của sự sống và sự tồn tại. Và không bỏ lỡ bất kì cơ hội nào để sống.
Không nhìn lại sau. Chỉ người ngu nghĩ về quá khứ – người ngu không có thông minh để sống trong hiện tại. Và chỉ người ngu tưởng tượng về tương lai, vì họ không có dũng cảm để sống trong hiện tại. Quên quá khứ, quên tương lai, khoảnh khắc này là tất cả. Khoảnh khắc này phải trở thành lời cầu nguyện của bạn, yêu của bạn, chết của bạn, mọi thứ của bạn. Đây là nó.
Và sống một cách dũng cảm, không là kẻ hèn. Không nghĩ về hậu quả; chỉ kẻ hèn nghĩ về hậu quả. Không quá hướng kết quả; người hướng theo kết quả bỏ lỡ sự sống. Đừng nghĩ về mục đích, vì mục đích bao giờ cũng trong tương ai và xa xôi, còn sự sống là ở đây bây giờ, cận kề.
Và không quá theo chủ định. Để tôi nhắc lại điều đó: không quá theo chủ định. Đừng bao giờ mang ý tưởng này, “Chủ định của nó là gì?” vì đó là chiến lược do kẻ thù của bạn tạo ra, bởi kẻ thù của nhân loại, để đầu độc chính cội nguồn sự sống của bạn. Hỏi câu hỏi, “Chủ định của nó là gì?” và mọi thứ trở thành vô nghĩa.
Lúc đó là sáng sớm, mặt trời đang mọc và phương đông ửng hồng với mặt trời, và chim đang hót và cây đang thức dậy, và lúc đó là toàn vui vẻ. Nó là việc hân hoan, ngày mới đã lại bắt đầu. Và bạn đang đứng đó mà hỏi câu hỏi, “Chủ định của nó là gì?” Bạn bỏ lỡ, bạn bỏ lỡ nó một cách toàn bộ. Bạn đơn giản bị ngắt kết nối.
Hoa hồng đang múa trong gió, tinh tế thế và vậy mà mạnh mẽ thế, mềm mại thế vậy mà tranh đấu với gió mạnh, nhất thời thế vậy mà tự tin thế. Nhìn hoa hồng đi. Bạn đã bao giờ thấy bất kì hoa hồng nào bồn chồn không? Tự tin thế, hoàn toàn tự tin thế, dường như nó sẽ ở đây mãi mãi. Chỉ sự tồn tại của khoảnh khắc, và tin cậy thế vào vĩnh hằng. Nhảy múa trong gió, thì thào cùng gió, toả ra hương thơm của nó – và bạn đang đứng đó mà hỏi câu hỏi, “Chủ định của nó là gì?”
Bạn rơi vào yêu người đàn bà và hỏi câu hỏi, “Chủ định của điều đó là gì?” Bạn đang cầm tay người yêu của bạn hay bạn của bạn, và hỏi câu hỏi, “Chủ định của điều đó là gì?” Và bạn có thể vẫn đang cầm tay, nhưng bây giờ sự sống đã biến mất, tay bạn là chết.
Nêu ra câu hỏi, “Chủ định là gì?” và mọi thứ bị phá huỷ. Để tôi nói cho bạn, không có chủ định gì trong sự sống. Sự sống là chủ định riêng của nó; nó không là phương tiện cho mục đích nào đó, nó là mục đích lên bản thân nó. Chim đang tung cánh, hoa hồng trong gió, mặt trời mọc buổi sáng, sao trong đêm, đàn ông rơi vào yêu đàn bà, đứa bé chơi trên phố… không có chủ định nào. Sự sống đơn giản đang tận hưởng bản thân nó, vui sướng trong bản thân nó. Năng lượng đang tràn ngập, nhảy múa, chẳng vì chủ định chút nào. Nó không phải là việc biểu diễn, nó không phải là công việc. Sự sống là chuyện tình, nó là thơ ca, nó là âm nhạc. Đừng hỏi những câu hỏi ngu như, “Chủ định là gì?” vì khoảnh khắc bạn hỏi nó, bạn ngắt kết nối bản thân bạn với sự sống. Sự sống không thể được bắc cầu bởi những câu hỏi triết lí. Triết lí phải bị gạt sang bên.
Là nhà thơ của sự sống đi, là ca sĩ, nhạc sĩ, vũ công, người yêu và bạn sẽ biết triết lí thực của sự sống: philosophia perennis.
Và nếu bạn biết cách sống… và nó là nghệ thuật đơn giản. Cây đang sống và không ai có đó để dạy chúng. Thực ra chúng phải cười; khi thấy rằng bạn đã hỏi câu hỏi như vậy, chúng phải cười khúc khích – bạn có thể không có khả năng nghe thấy tiếng khúc khích của chúng.
Toàn thể sự tồn tại là phi triết lí. Nếu bạn có tính triết lí, thế thì kẽ hở nảy sinh giữa bạn và sự tồn tại. Sự tồn tại đơn giản hiện hữu, chẳng vì chủ định nào. Và người thực sự muốn sống phải gạt bỏ ý tưởng này về chủ định. Nếu bạn bắt đầu sống không có bất kì chủ định nào, với sự mãnh liệt, tính toàn bộ, yêu và tin cậy, khi chết tới, bạn sẽ biết cách chết – vì chết không phải là kết thúc của sống, mà chỉ là một chương trong sống.
Nếu bạn đã biết những điều khác, nếu bạn đã sống các điều khác, bạn sẽ có khả năng sống cái chết nữa. Con người thực của hiểu biết sống cái chết của mình nhiều như người đó sống cuộc sống của mình, với cùng sự mãnh liệt, với cùng xúc động.
Socrates đã xúc động thế khi ông ấy sắp được cho thuốc độc. Thuốc độc đã được chuẩn bị bên ngoài phòng của ông ấy. Các đệ tử của ông ấy đã tụ tập lại; ông ấy đang nằm trên giường, sẵn sàng, vì thời gian đang tới gần hơn. Vào sáu giờ, đích xác khi mặt trời lặn, ông ấy sẽ được cho thuốc độc. Mọi người thậm chí không thở, đồng hồ đang tiến mỗi lúc một gần tới sáu giờ, và con người đẹp này sẽ đi mãi mãi. Và ông ấy đã không phạm bất kì tội gì. Tội duy nhất của ông ấy là ông ấy thường nói chân lí cho mọi người, rằng ông ấy là thầy giáo về chân lí, rằng ông ấy sẽ không thoả hiệp, rằng ông ấy sẽ không cúi mình dưới các chính khách ngu xuẩn. Đó là tội duy nhất của ông ấy; ông ấy đã không làm bất kì hại nào cho bất kì ai. Và Athens vẫn còn nghèo hơn mãi mãi.
Thực ra, với cái chết của Socrates, Athens đã chết. Thế rồi nó không bao giờ có cùng vinh quanh nữa, không bao giờ. Điều đó đã là tội ác, giết Socrates, tới mức Athens đã tự tử. Văn hoá Hi Lạp không bao giờ đạt tới đỉnh cao như thế lần nữa. Trong vài ngày nó đã tiếp tục, chỉ tiếng vọng của Socrates – vì Plato đã là đệ tử của ông ấy, chỉ là tiếng vọng. Và Aristotle đã là đệ tử của Plato, tiếng vọng của tiếng vọng. Dần dần, dần dần, khi các tiếng vọng của Socrates biến mất, văn hoá Hi Lạp biến mất khỏi thế giới. Nó đã thấy những ngày vinh quang, nhưng nó tự tử bằng việc sát hại Socrates.
Đệ tử của ông ấy đã rất bị rối trí, nhưng Socrates đã xúc động, hệt như đứa trẻ nhỏ, khi bạn đem nó tới triển lãm, được xúc động thế bởi mọi thứ, từng và mọi thứ đều không thể tin được thế. Ông ấy cứ đứng lên lặp đi lặp lại và đi ra cửa sổ và hỏi người đang chuẩn bị thuốc độc, “Sao ông trì hoãn thế? Giờ đã sáu giờ rồi!”
Và người này nói, “Ông điên hay cái gì, Socrates? Tôi trì hoãn chỉ để cho người đẹp như ông có thể nán lại lâu hơn chút ít. Tôi không thể trì hoãn mãi được, nhưng ngần này thì tôi có thể làm. Chút ít thời gian thêm nữa, nấn ná thêm chút ít nữa! Sao ông vội chết thế?”
Socrates nói, “Tôi đã biết sống rồi, tôi đã sống cuộc sống, tôi biết hương vị của sống. Giờ tôi tò mò về chết! Đó là lí do tại sao tôi vội thế. Tôi đang đập rộn ràng cùng niềm vui lớn – chính ý tưởng rằng bây giờ tôi sắp chết, và tôi sẽ có khả năng thấy chết là gì. Tôi muốn nếm trải chết. Tôi đã nếm trải mọi thứ khác rồi, duy nhất một điều vẫn còn không được biết. Tôi đã sống cuộc sống và biết mọi thứ cuộc sống có thể cho. Đây là món quà cuối cùng của sống, và tôi thực sự mê say.”
Người đã sống, thực sự sống, sẽ biết cách chết.
Vandana, không có nghệ thuật chết. Nghệ thuật sống là nghệ thuật chết, vì chết không phải là cái gì đó tách rời khỏi sống. Chết là đỉnh cao nhất của sống, đỉnh Everest, Everest đỉnh ánh mặt trời phủ tuyết trinh nguyên. Nó là điều đẹp nhất trong sự tồn tại.
Nhưng bạn có thể biết cái đẹp của chết chỉ nếu bạn biết cái đẹp của sống. Sống chuẩn bị bạn cho chết. Nhưng mọi người không sống chút nào; họ bị cản trở sống theo mọi cách có thể. Cho nên họ không biết sống là gì, và hệ quả là họ sẽ không biết chết là gì.
Chết là dối trá. Bạn không kết thúc cùng nó, bạn chỉ lấy lối rẽ. Bạn đi lên con đường khác; bạn biến mất từ con đường này, bạn xuất hiện trên con đường khác. Nếu bạn còn chưa thức tỉnh, chưa chứng ngộ, thế thì ở đây bạn chết, ở kia bạn được sinh ra. Bạn biến mất khỏi thân thể này và bạn xuất hiện ngay lập tức trong bụng mẹ nào đó, vì hàng triệu người ngu đang giao hợp trên khắp thế giới – họ chỉ đang đợi bạn! Và thực sự có nhiều người tới mức điều tốt là bạn chết đi vô ý thức và bạn chọn bụng mẹ mới một cách vô ý thức. Nếu nó mà là chọn lựa có ý thức, bạn sẽ phát rồ. Chọn thế nào? Chọn ai?
Một cách vô ý thức bạn chết đi, một cách vô ý thức bạn được sinh vào trong bụng mẹ gần nhất có thể được mà khớp với bạn. Thân thể này mất đi, và thân thể khác lập tức được hình thành.
Nhưng nếu bạn được chứng ngộ…. Và tôi ngụ ý gì bởi “được chứng ngộ”? Tôi ngụ ý nếu bạn đã sống cuộc sống của bạn với nhận biết, và bạn đã đạt tới điểm nhận biết nơi không có chấm tối nào của vô thức tồn tại trong bạn, thế thì không còn bất kì bụng mẹ nào dành cho bạn. Thế thì bạn đi vào trong bụng mẹ của Thượng đế – bản thân sự tồn tại. Đó là giải thoát, moksha, niết bàn.
Từ “Sách về Trí huệ”, T.1, Ch.14