Tượng và tôn thờ

Tượng và tôn thờ

 

Ts. Frank Rudolf đã dành cả đời mình với một số bộ lạc nguyên thuỷ ở Amazon để làm nghiên cứu về một hiện tượng rất kì lạ. Tôi muốn kể cho bạn về điều đó để cho bạn có thể hiểu dễ dàng hơn việc tôn thờ tượng được ngụ ý về cái gì. Phần lớn các cộng đồng nguyên thuỷ trong một thời gian dài đã biết về một quá trình đặc biệt. Rudolf đã nghiên cứu điều này và đã đạt tới những kết luận đáng ngạc nhiên.

Những bộ lạc nguyên thuỷ nào đó tin rằng có thể làm cho một người bị một bệnh đặc biệt qua một tượng đất sét giống với ai đó, cái đại diện cho người đó. Họ tin rằng ngay cả chết cũng có thể được mang tới theo cách này. Trong ba mươi năm Ts. Rudolf đã cố tìm ra làm sao có thể truyền được bệnh và chết qua một hình đại diện bằng đất sét của ai đó. Rudolf đã tiếp cận chủ đề này một cách nghi ngại và khoa học, và hàng trăm lần ông ấy thực tại đã thấy bằng chính mắt mình bệnh và chết được truyền đi, cho dù người này ở xa cả nghìn dặm.

Nghiên cứu lâu dài của ông ấy đã thuyết phục ông ấy về tính đúng đắn của những việc xảy ra như vậy. Đã có ba điều mà ông ấy đã đi tới biết sau việc thực nghiệm lên bản thân ông ấy. Đầu tiên, không nhất thiết tượng đất sét phải đích xác giống như người mà bệnh hay chết được cầu viện tới. Thậm chí khó cho nhà điêu khắc chuyên gia làm ra tượng đất sét đích xác giống như một người đặc biệt, nhưng điều đó là không cần thiết; điều quan trọng là thiết lập về mặt tinh thần hình và hình thể của người này trên hình đại diện bằng đất. Và có phương pháp để làm điều này…. Nếu người làm tượng nhắm mắt lại và nhớ tới người kia và về mặt tinh thần áp đặt ý chí của mình lên bức tượng, bức tượng sẽ trở thành có tính biểu tượng và hoạt động.

Tôi đã nói cho bạn về dấu son đỏ và về con mắt thứ ba, cái ở giữa hai lông mày, đã được tìm ra qua khoa học Yoga, cái có quyền năng lớn được lưu giữ trong nó – nó là trung tâm truyền phát lớn. Nếu bạn bảo con trai bạn hay người phục vụ làm cái gì đó, và bạn cảm thấy họ có thể từ chối, bạn có thể làm một thực nghiệm nhỏ. Nếu bạn tập trung năng lượng của bạn vào trung tâm ở giữa hai mắt và bảo họ điều bạn muốn họ làm, chín trong số mười lần họ sẽ làm điều đó. Nhưng nếu bạn yêu cầu họ mà không có việc tập trung năng lượng của bạn theo cách đó, chín trong mười lần họ sẽ không làm. Bất kì ý tưởng hay ý nghĩ nào được truyền bằng năng lượng được tập trung giữa hai con mắt đều chuyển nhanh chóng và mang cùng nó quyền năng lớn.

Nếu bạn tập trung vào hình ảnh của một người với năng lượng của luân xa agya, và nếu ý nghĩ đó được hướng vào bức tượng, nó không còn là đất sét đơn thuần. Khối lượng đất sét đó trở nên được tích năng lượng bởi ý chí tập trung của bạn. Nếu bạn truyền về mặt tinh thần một bệnh nào đó vào trong bức tượng đó trong một phút, người mà tượng đất sét đại diện cho sẽ bị bệnh đó. Dù người đó ở xa thế nào với bạn, người đó sẽ bị ảnh hưởng; người đó thậm chí có thể chết.

Rudolf đã viết rằng điều dường như không thể tin được thực tại đã xảy ra trong thực nghiệm của ông ấy. Trước chính mắt mình ông ấy đã thấy một số người bộ lạc thúc ép một cái cây, qua bản sao bằng đất của nó, phải khô và héo đi. Cây này, mà đã từng sum sê, xanh tươi và mạnh khoẻ, đã héo đi, và lá của nó trở nên khô. Mặc cho việc được tưới nước, trong vòng một tháng cây này trở nên bị bệnh và chết. Điều đã xảy ra cho cây xảy ra cho người.

Tôi đang nói về những phát hiện này của Rudolf vì việc tôn thờ tượng là thực nghiệm tương tự nhưng trên qui mô lớn. Nếu chúng ta có thể truyền bệnh hay chết cho một người, không có lí do gì tại sao chúng ta không thể thiết lập hay tái lập mối quan hệ với những người đã chết. Có thể là chúng ta lấy cú nhảy từ tượng vào cái có mặt khắp nơi và không biểu lộ.

Toàn thể cơ sở của việc tôn thờ tượng là mối quan hệ giữa tâm trí của bạn và tâm trí càn khôn. Điều được cần chỉ là chiếc cầu giữa hai điều này, và chiếc cầu đó có thể được làm ra. Tượng là nỗ lực để tạo ra chiếc cầu đó. Chỉ cái gì đó mà là biểu lộ, như hình thể của tượng, có thể trở thành chiếc cầu – vì bạn không thể thiết lập móc nối trực tiếp với cái vô hình thể.

Dù người ta có thể nói nhiều đến đâu về cái vô hình thể và không biểu lộ, điều đó đơn thuần là nói và không truyền đạt bất kì cái gì cho bạn. Bất kì kinh nghiệm nào tâm trí bạn có đều toàn là kinh nghiệm về hình và thể nào đó; bạn không có kinh nghiệm về cái vô hình, và lời không thể truyền đạt được bất kì cái gì về cái đã không được trải nghiệm. Bạn sẽ liên tục nói về cái vô hình và liên tục sống với cái có hình thể. Cho nên nếu bạn muốn thiết lập quan hệ với cái vô hình thể, bạn phải làm cái gì đó mà một phía có hình thể và phía kia là vô hình thể. Đó là bí mật của tượng.

Để tôi giải thích điều này theo cách khác. Từ phía của mình, chúng ta cần chiếc cầu có hình thể sờ thấy được, nhưng nó cũng có phần vô hình thể: tại đầu của chúng ta nó là biểu lộ, và tại đầu xa hơn, khi nó tiến gần tới điều thiêng liêng, nó trở thành vô biểu lộ. Nếu tượng này vẫn còn chỉ là tượng, nó không thể hành động như chiếc cầu; nếu nó là tuyệt đối vô hình thể, thế nữa nó không thể là chiếc cầu. Tượng này phải phục vụ cho hai chủ định: nó phải là thấy được bên phía chúng ta và tan biến trong cái vô hình thể ở phía bên kia.

Nếu tôi bảo bạn rằng thuật ngữ “tôn thờ tượng” là sai, bạn sẽ ngạc nhiên; nhưng thực tại điều đó là tuyệt đối sai. Nó là sai vì với người biết cách tôn thờ, tượng không còn là tượng. Và người chỉ thấy tượng thì không biết tôn thờ là gì hay làm sao tôn thờ. Chúng ta dùng hai từ; một từ là tượng và từ kia là tôn thờ. Hai khái niệm này không thể được trải nghiệm bởi cùng một người đồng thời. Từ tượng là dành cho những người chưa bao giờ tôn thờ, và từ tôn thờ thuộc về những người chưa bao giờ nhìn tượng.

Nói khác đi, chúng ta ta có thể nói rằng tôn thờ là nghệ thuật làm cho tượng biến mất. Nó là nghệ thuật bỏ dần cái biểu lộ và đi vào trong cái vô biểu lộ. Hình thể biểu lộ dần dần tan biến trong cái vô biểu lộ, và khi tôn thờ làm sâu sắc hơn chỉ cái vô biểu lộ còn lại. Cho nên “tôn thờ tượng” là tự mâu thuẫn. Do đó ai đó, người đang tôn thờ bị khó xử là tượng ở đâu, và người đã không tôn thờ chút nào tự hỏi tượng đá có thể làm được gì. Hai kiểu người này có các kiểu kinh nghiệm khác nhau – và ở giữa họ không có nền tảng chung.

Khi bạn đi tới đền bạn chỉ thấy tượng, vì bạn không có khả năng thấy bản thân việc tôn thờ. Trong đền một Meera có thể được thấy bị thu hút toàn bộ trong việc tôn thờ của cô ấy. Với cô ấy không có tượng. Ngay khi việc tôn thờ thực sâu sắc lên, tượng tan biến. Chúng ta thấy tượng vì chúng ta không biết tôn thờ là gì. Khi càng ngày càng ít có tôn thờ trên thế giới này, chúng ta ngày càng thấy nhiều tượng hơn. Khi có nhiều tượng, việc tôn thờ biến mất đi là tốt. Trong trường hợp đó, tượng sẽ phải bị kéo xuống, vì chúng sẽ hữu dụng gì nữa? Chúng là không liên quan.

Bình thường, chúng ta nghĩ rằng con người càng nguyên thuỷ, người đó càng có thể là người tôn thờ tượng, và rằng khi con người trở nên thông minh hơn, người đó sẽ bỏ tượng. Nhưng điều này là không đúng. Trong thực tại, việc tôn thờ có khoa học riêng của nó, và chúng ta càng trở nên dốt nát về điều đó, nó dường như càng huyền bí hơn với chúng ta.

Liên quan đến điều này sẽ là có ích để nói cho bạn thêm một điều nữa. Niềm tin của chúng ta rằng con người đã làm tiến bộ theo mọi hướng, rằng con người đã tiến hoá đầy đủ, là tuyệt đối sai. Cuộc sống của con người là bao la tới mức nếu con người làm tiến bộ lớn theo hướng này, con người không nhận ra mình còn tụt lại ở đằng sau bao xa theo hướng khác. Nếu khoa học đã làm tiến bộ lớn, chúng ta đã tụt xa lại sau trong vấn đề tôn giáo. Bất kì khi nào tôn giáo nở hoa, khoa học tụt lại sau. Khi chúng ta trưởng thành trong chiều hướng này, các chiều hướng khác hoàn toàn bị quên đi.

Ở châu Âu năm 1880 hang động Altamira đã được khám phá ra. Trong những hang động đó có những bức tranh mầu được nói là đã được vẽ từ hai mươi nghìn năm trước. Nhưng mầu của những bức tranh này có vẻ tươi tắn dường như chúng đã được vẽ hôm qua. Vì điều này, Don Marcellano, người khám phá ra những hang động này, đã bị phê phán khắp châu Âu. Mọi người nghĩ rằng ông ấy đã sửa những bức tranh này. Mọi nghệ sĩ thấy những bức tranh này đều nói Marcellano đã cố lừa công chúng, rằng những mầu tươi tắn như vậy không thể là cổ đại được.

Điều họ đã nói là đúng, theo một cách nào đó, vì các bức tranh của Van Gogh, mà thậm chí chưa được một trăm năm tuổi, đã phai mầu; những bức tranh mà Picasso đã vẽ trong thời thanh niên của ông ấy đã trở nên già như bản thân ông ấy. Mầu sắc được dùng những ngày này bởi các nghệ sĩ trên toàn thế giới không kéo dài được quá một trăm năm; chúng nhất định phai mầu trong vòng một thế kỉ.

Nhưng khi nghiên cứu về các hang động mà Marcellano đã tìm ra được hoàn thành, nó đã được chứng minh bên ngoài mọi hoài nghi rằng các hang động đã nhiều hơn hai mươi nghìn năm tuổi. Đây là điều huyền bí lớn, vì những người đã vẽ những mầu đó dường như đã biết nhiều về mầu sắc hơn chúng ta biết ở hiện tại. Chúng ta có thể có khả năng lên tới mặt trăng, nhưng chúng ta không có khả năng làm ra các mầu mà có thể vẫn còn tươi tắn và kéo dài lâu hơn một trăm năm. Nhưng người đã làm ra những mầu này từ hai mươi nghìn năm trước đã biết về khoa học mầu sắc nhiều hơn chúng ta biết.

Các xác ướp Ai Cập đã mười nghìn năm tuổi. Chúng là những xác chết của con người, nhưng chúng đã được bảo tồn tốt thế – dường như họ mới chết hôm qua. Chúng ta đã không có khả năng khám phá ra các chất bảo tồn hoá học mà có thể đã được dùng. Làm sao những thân thể này có thể đã được bảo vệ trong mười nghìn năm? – không có hư hỏng chút nào. Nhưng chúng ta đã không có khả năng thiết lập những hoá chất nào đã được dùng để bảo tồn chúng.

Những tảng đá khổng lồ trên đỉnh kim tự tháp không thể đã được đặt lên đó bởi bất kì cần trục nào mà chúng ta có thể có ngày nay. Việc đặt chúng lên đó dường như ở ngoài sức mạnh của con người, nhưng không thể nào có chuyện người thời đó có cần trục. Họ phải đã biết kĩ thuật nào đó, điều chúng ta thậm chí không thể đoán được, để nâng những tảng đá đó lên.

Chân lí của sự sống là đa chiều. Cùng công việc có thể được làm bằng nhiều phương pháp khác nhau và nhiều kĩ thuật khác nhau. Sự sống là bao la tới mức khi chúng ta bắt đầu làm việc theo chiều này, chúng ta quên tất cả các chiều khác.

Tượng đã được tạo ra bởi những người đã phát triển rất cao. Điều này đáng nghĩ tới. Và tượng là chiếc cầu kết nối chúng ta với lực càn khôn bao quanh chúng ta, cho nên những người đã phát triển tượng đã làm chiếc cầu cho việc hiểu điều huyền bí tối thượng của sự sống.

Chúng ta nói rằng chúng ta đã khám phá ra điện. Chắc chắn chúng ta tiên tiến và văn minh hơn các cộng đồng trước đây mà họ chẳng biết gì về điện. Chúng ta đã khám phá ra sóng radio, và chúng ta có thể gửi thông báo từ nước này sang nước khác trong vòng một giây, cho nên chúng ta dứt khoát tiên tiến hơn những người phụ thuộc và sức mạnh của tiếng nói riêng của họ để liên lạc, chỉ vào trăm năm trước, bằng việc hét to.

Nhưng khi so sánh với những người có khả năng làm ra chiếc cầu để tiếp xúc với nguồn sống tối thượng, chúng ta chỉ là trẻ con. Điện của chúng ta, radio của chúng ta và những khám phá tương tự chỉ là trò chơi. Nghệ thuật được kết nối với điều bí ẩn tối thượng của sự sống đã được khám phá ra bởi những người đã làm việc rất cần mẫn theo một chiều hướng đó.

Như tôi đã nói với bạn trước đây, một mặt của tượng đối diện với con người, và cửa sổ mở ra từ hình thể đó hướng tới cái vô hình thể. Cửa sổ của nhà phải có hình và dạng, cũng như ngôi nhà có hình và dạng; cửa sổ không thể là vô hình dạng được. Nhưng khi bạn mở cửa sổ và nhìn vào bầu trời, bạn đi vào cái vô hình thể. Nếu tôi nói với ai đó chưa bao giờ mở cửa sổ của người đó để xem bầu trời rằng bằng việc mở cửa sổ của nhà tôi, tôi có khả năng thấy cái vô hình thể, người đó sẽ nói tôi điên. Làm sao người ta có thể thấy cái vô hạn từ cửa sổ nhỏ? – nhiều nhất bất kì cái gì bạn có thể thấy từ cửa sổ chỉ có thể là lớn như bản thân cửa sổ. Anh ta hoàn toàn logic, và nếu anh ta chưa bao giờ nhìn thấy bầu trời qua cửa sổ sẽ khó mà thuyết phục anh ta rằng cho dù một cửa sổ nhỏ cũng có thể mở ra cái vô hạn. Cửa sổ không thể đặt giới hạn lên cái mà nó mở ra, tượng cũng không thể đặt giới hạn lên cái vô hình thể.

Những người nghĩ tượng là chướng ngại trong việc hiểu cái vô hiển lộ phạm phải sai lầm lớn. Và những người nghĩ rằng bằng việc đập vỡ cửa sổ, bầu trời có thể bị đập vỡ, là điên! Bằng việc phá huỷ tượng, cái vô hiển lộ không thể bị quấy rối. Nhưng những người không biết nghệ thuật và giả kim thuật của tôn thờ có thể nghĩ tới việc phá huỷ tượng.

Tôn thờ là vấn đề riêng từng người, có tính chủ thể, ở bên trong tới mức nó không thể được diễn đạt hay trưng ra. Bất kì cái gì bên trong và riêng từng người trong cuộc sống đều không thể được trưng ra. Nếu tim tôi bị cắt mở ra bạn sẽ không thể thấy được yêu ở trong nó; mà bạn cũng không thấy được giận, ghét, tha thứ hay từ bi. Bạn sẽ chỉ thấy một loại bơm cho việc tuần hoàn máu. Nếu sau khi đặt tôi lên bàn mổ và nghiên cứu tim tôi, bác sĩ giải phẫu xác nhận rằng tôi chưa bao giờ trải nghiệm bất kì yêu hay ghét nào, tôi không có cách nào để chứng minh ông ấy sai. Bác sĩ giải phẫu có xác nhận được lời tuyên bố của tôi rằng tôi đã yêu không? Ông ấy có thể nói rằng tôi đang bị ảo tưởng. Nhưng nếu tôi hỏi bác sĩ liệu ông ấy có bất kì kinh nghiệm nào về yêu hay ghét không, nếu ông ấy là logic và chân thực, ông ấy sẽ nói rằng ông ấy cũng có những ảo tưởng như vậy; bằng không, tim được thấy trên bàn mổ chỉ là vật thể như cái bơm để tuần hoàn máu và không có cái gì như tim cảm thấy yêu hay ghét.

Nếu mắt bạn được mổ ra và khám nghiệm, nó sẽ không thể nào chứng minh được rằng chúng đã thấy các giấc mơ. Làm sao bạn có thể biết được từ mắt vẫn đang mở trên bàn mổ rằng ban đêm, khi được nhắm lại, nó đã thấy nhiều mơ? Tất cả chúng ta đều mơ, nhưng chúng tồn tại ở đâu? Mơ có thể là không thực, nhưng sự tồn tại của chúng không thể bị phủ nhận. Dù mơ có thể không thực thế nào, nó đã xảy ra ở đâu đó bên trong. Nếu nó là giấc mơ kinh hoàng, khi bạn thức dậy tim bạn đập nhanh hơn; cho dù nó đã là không thực, nếu bạn khóc trong giấc mơ, khi bạn thức mắt bạn sẽ ướt. Cái gì đó đã xảy ra bên trong nhưng bên ngoài, con mắt vật lí, không để lộ bất kì điều gì: bất kì cái gì là bên trong, có tính chủ thể và tiếng riêng cá nhân đều không thể được nhìn thấy từ bên ngoài.

Tượng có thể được nhìn thấy – như tim hay mắt có thể được nhìn thấy. Nhưng việc tôn thờ không thể được nhìn thấy. Tôn thờ giống như yêu hay mơ; do đó khi bạn đi qua đền, bạn có thể thấy tượng nhưng không thấy tôn thờ. Cho nên nếu bạn thấy Meera múa trước tượng, bạn sẽ nghĩ cô ấy bị điên, một cách tự nhiên, vì việc tôn thờ của cô ấy không thể được thấy. Cô ấy dường như chỉ đang múa trước tảng đá!

Khi Ramakrishna được chỉ định là tu sĩ ở đền Dakshineshwar ở Calcutta, sau vài ngày mọi người bắt đầu phàn nàn về ông ấy. Người ta nói rằng trước khi cúng dường hoa cho thần, Ramakrishna trước hết đã ngửi chúng, rằng trước khi cúng dường cho thần thức ăn, đích thân ông ấy đã nếm nó! Điều này bị coi là báng bổ.

Ramakrishna đã được triệu tới trước uỷ ban đền và bị yêu cầu giải thích. Ông ấy nói rằng bất kì khi nào mẹ ông ấy cho ông ấy ăn, đầu tiên bà ấy sẽ thử thức ăn để quyết định liện nó có đủ vị ngon cho ông ấy không, bà ấy sẽ quyết định trước hết liệu có đáng cho ông ấy không; cho nên ông ấy đã làm cùng cách này với thần. Làm sao ông ấy có thể cúng dường thức ăn mà bản thân ông ấy đã không thấy ngon? Làm sao ông ấy có thể cúng dường hoa mà ông ấy đã không ngửi? Uỷ ban nói rằng điều này đi ngược lại các qui tắc của tôn thờ.

Ramakrishna hỏi, “Có thể có bất kì qui tắc nào cho tôn thờ sao? Có thể có bất kì qui tắc nào cho yêu sao?” Nơi có qui chế, tôn thờ chết. Nơi có qui chế, yêu chết. Yêu là việc trút ra tình cảm bên trong, cái rất có tính cá thể và cá nhân. Có chân lí phổ quát trong đó điều này có thể được nhận ra. Khi hai ngườu yêu nhau, mặc dầu họ cả hai đang yêu, họ yêu theo cách cá nhân riêng của họ. Cái biểu lộ có thể là khác toàn bộ, nhưng có sự tương tự của kinh nghiệm. Trong cả hai người này, trong yêu của họ, cùng một hồn cư ngụ.

Tôi đã nói cho bạn rằng mặc dù tượng có thể được nhìn thấy, tôn thờ không thể được nhìn thấy, nhưng dầu vậy chúng ta đã làm ra từ, “tôn thờ tượng,” điều là tuyệt đối sai. Tôn thờ là phương pháp phá huỷ tượng. Đầu tiên người sùng kính làm ra tượng và thế rồi người đó làm cho nó biến mất. Theo nghĩa trần tục người đó làm ra tượng, và theo nghĩa tâm linh người đó phá huỷ nó. Người đó làm ra nó từ bùn và thế rồi để nó tan biến trong sự tồn tại tối thượng.

Bây giờ tôi sẽ nói cho bạn về một khía cạnh nữa…. Ở nước này trong hàng nghìn năm chúng ta đã làm tượng và thế rồi nhấn chìm chúng vào nước. Nhiều người cảm thấy điều đó là kì lạ và họ đã hỏi tôi tại sao những tượng đẹp được làm ra về nữ thần Kali và thế rồi sau vài ngày bị ném vào nước. Tại sao thần Ganesha được trang điểm kiểu lễ hội và được tôn thờ yêu mến trong vài ngày, và thế rồi bị nhấn chìm vào trong nước? – hoặc bị ném xuống biển hay sông hay hồ. Điều này là điên! Nhưng có quan niệm hay đằng sau việc nhấn chìm này.

Bí mật thực của tôn thờ là trong việc làm ra tượng và thế rồi để nó biến mất… tạo hình và thể cho tượng và thế rồi để nó tan biến trong cái vô hình thể. Nó là biểu tượng – nghệ thuật làm tượng của nữ thần Kali, tôn thờ nó, và thế rồi nhấn chìm nó vào trong nước. Nhưng chúng ta không tôn thờ theo cách đúng: chúng ta đã làm ra tượng, đã trang điểm cho nó đẹp và chăm sóc nó, thế rồi chúng ta ngần ngại buông bỏ nó bằng việc nhấn chìm nó. Nếu chúng ta mà thực sự tôn thờ, tôn thờ theo nghĩa sâu nhất, thế thì tượng sẽ phải biến mất bên trong chúng ta, được kết tinh bên trong chúng ta, lâu trước khi chúng ta để nó biến mất trong nước. Nếu việc tôn thờ thực mà xảy ra thế thì chắc đã không cần nhấn chìm tượng chút nào, nó có thể đã còn lại ở chỗ nó đã ở nhưng tim của người tôn thờ đã được chìm vào trong sự tồn tại, trong điều thiêng liêng. Thế thì, nếu chúng ta đi nhấn chìm tượng, điều đó chắc đã giống như vứt đi hộp đựng đã dùng; nó đã làm xong công việc của nó.

Nhưng tượng mà chúng ta nhấn chìm là hộp đựng đã nạp đầy – vô dụng và vẫn sống. Chúng ta chỉ nạp hộp đựng và chúng ta phải lập tức vứt nó đi, để cho một cách tự nhiên chúng ta bất hạnh về nó. Trong những thời đầu, trong hai mươi mốt ngày tôn thờ, hộp đựng bị đốt cháy, nó đã phục vụ chủ định của nó; trong thời gian đó việc nhấn chìn hay biến mất của tượng đã xảy ra.

Tôn thờ là nhấn chìm.

Bạn bắt đầu cuộc hành trình của bạn từ tượng, cái ở trước bạn. Tôn thờ là quá trình qua đó bạn tiến lên. Khi bạn đi lên trước tượng bị bỏ lại đằng sau, và chỉ tôn thờ còn lại. Nếu bạn dừng lại ở tượng bạn không biết tôn thờ là gì. Bất kì ai liên tục tôn thờ đã nhận ra tượng, đã biết rễ của tôn thờ và chủ định thực của tượng.

 

Từ “Điều huyền bí ẩn kín”, Ch.4