Tôn giáo ít và nhiều môn đồ

Thưa thầy kính yêu của chúng tôi

Trong cuốn sách của mình, Triết học vĩnh viễn, Aldous Huxley viết: “Tôn giáo không tạo ra hấp dẫn các xúc động có rất ít môn đồ.”

Nhìn vào bao nhiêu người Ki tô giáo có đó trên thế giới khi so sánh với những người được hấp dẫn tới Thiền, điều đó dường như là đúng.

Mọi người có bị gắn bó với ý tưởng về Thượng đế vì nó kích thích xúc động không? Điều đó có thể bao gồm sợ cũng như yêu, nhưng ít nhất người ta cảm thấy cái gì đó, và với thời gian hiện tại được đưa ra khỏi bản thân người ta.

 

Không. Maneesha, Aldous Huxley là nhà tư tưởng lớn, nhưng ông ấy không là phật đã thức tỉnh. Điều ông ấy nói là đúng về logic, nhưng không đúng về mặt tồn tại.

Tôn giáo không tạo ra hấp dẫn tới xúc động có rất ít môn đồ, nhưng đó là những tôn giáo duy nhất có đó. Tôn giáo hấp dẫn mọi người tới các xúc động của họ không phải là tôn giáo mà là tôn giáo giả, tôn giáo rởm, đồ giả.

Tôn giáo đích thực đi ra ngoài xúc động, tình cảm, cảm tính, ý nghĩ – cái là toàn thể tâm trí của bạn. Nhưng tôn giáo không đích thực, tôn giáo quan tâm nhiều tới khai thác mọi người hơn là giải phóng họ, làm cho họ thành nô lệ thay vì được thức tỉnh, nhất định hấp dẫn các xúc động của bạn. Hiển nhiên, những tôn giáo này có nhiều người đi theo hơn Thiền. Nhưng những tôn giáo này không phải là tôn giáo, đó là lí do tại sao nhiều người được hấp dẫn hướng tới chúng.

Khi đám đông bị hấp dẫn tới bất kì cái gì bạn có thể chắc chắn cái gì đó là sai, vì đám đông bao gồm những người chậm phát triển tinh thần; tuổi tinh thần của họ không hơn mười. Cho nên có các cái bẫy cho họ. Có những tôn giáo quan niệm về Thượng đế như nữ, đàn bà đẹp. Đột nhiên bạn bắt đầu cảm thấy xúc động dâng lên – Thượng đế phải là người đàn bà đẹp nhất trong toàn thể sự tồn tại; bạn trở nên bị sở hữu bởi lãng mạn.

Đó là chỗ người Sufis bị mắc kẹt – họ quan niệm về Thượng đế là đàn bà đẹp. Họ là những người yêu, và Thượng đế là người được yêu; họ là nam, và Thượng đế là nữ. Bây giờ, họ đơn giản truyền mọi sinh học của họ, chuyển nó từ người đàn bà bình thường được làm từ xương và thịt và máu và mủ… và có lẽ cả răng giả, tóc giả, vú cao su…!

Kinh sách không nói về vú cao su, răng giả, phẫu thuật tạo hình, tóc giả, nhưng khi kinh sách được viết ra những thứ này đã không sẵn có. Cho nên họ đã nói chỉ về xương, và thịt, và máu, và mủ. Thượng đế phải là đàn bà bằng vàng – không mồ hôi, không cần chất khử mùi. Thượng đế phải là trẻ vĩnh hằng.

Điều này chuyển sinh học của bạn thành ý tưởng giả, hư cấu. Nhưng đây không phải là tôn giáo. Điều này đang đưa bạn thành điên, vì nếu bạn muốn yêu bạn phải hiểu rằng người đàn bà thực tồn tại ở đây, không trên cõi trời. Và vấn đề là gì?

Tôi bao giờ cũng tự hỏi… Những người đã viết ra các kinh sách – và tôi đã nghe các thánh nhân lớn ở nước này – liên tục nói về đàn bà như thịt, và xương, và máu, và không gì khác. Và tôi bao giờ cũng tự hỏi họ nghĩ gì về thân thể riêng của họ? Họ có được làm bằng vàng không? Hay bằng bạch kim? Không một kinh sách nào nói về thân thể đàn ông, chỉ nói về thân thể đàn bà.

Hiểu biết của tôi là ở chỗ những người này vẫn ở sâu trong khao khát đàn bà. Để đè nén khao khát đó họ liên tục kết án đàn bà. Họ không kết án cho bạn, họ kết án cho bản thân họ để cho họ có thể đè nén ham muốn về đàn bà.

Bây giờ đây là việc chuyển – rằng Thượng đế trở thành đàn bà. Tôi sẽ cho bạn trường hợp khác mà sẽ đơn giản hơn….

Meera, một trong những nữ thánh nhân Ấn Độ nổi tiếng nhất, nghĩ về Thượng đế như đàn ông, thanh niên, Krishna. Cô ấy là người được yêu và ông ấy là người yêu. Cô ấy ngủ cùng bức tượng của Krishna trong giường.

Cô ấy lấy chồng – cô ấy thuộc về hoàng gia cho nên cô ấy lấy một hoàng tử của hoàng gia khác ở Rajasthan. Nhưng hoàng tử này đã hoàn toàn chán ghét vì cô ấy bảo với anh ta vào đêm đầu tiên, “Chồng tôi là Krishna. Đừng chạm vào thân thể tôi, nó sẽ là phạm thượng. Duy nhất Krishna có thể làm tình với tôi, không phải anh.”

Chắc chắn hoàng tử này đã tuyệt đối giận dữ, và không bao giờ vào lại căn phòng nơi Meera thường sống, hát bài ca và múa trước Krishna. Toàn thể ý tưởng của cô ấy về Krishna đã là ở chỗ ông ấy là người thực trên trời, và vấn đề chỉ là vài năm trước khi cô ấy sẽ gặp ông ấy. Nhưng việc chuẩn bị được cần – cô ấy phải làm ra tiếp xúc tim qua tim.

Đó toàn là tính dục bị đè nén….

Cô ấy càng tránh đàn ông, tình yêu của cô ấy với Krishna càng tăng trưởng, vì năng lượng dục cần việc diễn đạt theo cách nào đó.

Cô ấy đã rời khỏi cung điện, bắt đầu nhảy múa trên phố và hát các bài hát về Krishna. Bạn phải nhìn vào các bài hát và bạn sẽ thấy dục chi phối, vượt trội thế nào: “Khi anh tới em sẽ đợi anh trong giường của em. Khi nào anh tới? Đêm thật đẹp, hoa đêm đã nở, mọi người yêu đã tới người được yêu của họ, và em đang đợi một mình – khi nào anh tới?”

Đây là những cách diễn đạt tinh vi của tính dục, yêu thích dục. Bài ca của cô ấy là rất nhục dục. Cô ấy đã rót mọi nhục dục của cô ấy và mọi tính dục của cô ấy vào trong các bài hát của cô ấy, và Krishna đã trở thành ảo giác của cô ấy. Cô ấy mơ về Krishna, cô ấy hát về Krishna, cô ấy múa cùng Krishna – cô ấy giữ Krishna gần tim cô ấy.

Cô ấy được tôn thờ bởi mọi người như một thánh nhân lớn, nhưng những người hiểu biết một chút ít về tâm lí chắc đã gợi ý, “Cô cần trị liệu tâm thần, cô đơn giản ốm.”

Những người này đã hấp dẫn nhiều người, hiển nhiên. Bạn đã có tính dục của bạn… chỉ thay đổi chút ít…. Bạn đã có những xúc động và tình cảm của bạn… chỉ thay đổi chút ít…. Nó toàn là trò chơi tâm trí.

Cho nên những người Cơ đốc giáo có thể có số lượng sáu trăm triệu người, nhưng Thiền chỉ dành cho vài người được chọn, những người rất tinh hoa. Sự hấp dẫn của nó không dành cho đám đông; sự hấp dẫn của nó dành cho những người rất thông minh, người có thể nhìn ra ngoài tâm trí nơi không có tình cảm, không ý nghĩ, không cảm tính. Bạn đơn giản đi ra ngoài hoá học thân thể của bạn, ngoài sinh học, sinh lí. Bạn đã đi vào trong không gian mà chỉ có thể được gọi là vô trí.

Cho nên, Maneesha, đúng là tôn giáo không tạo ra hấp dẫn tới xúc động, có rất ít môn đồ, nhưng họ là những tôn giáo duy nhất xứng đáng được gọi là tôn giáo. Và những tôn giáo hấp dẫn hàng triệu người… bạn có thể thấy nó – tôn giáo càng thấp hơn và giả hơn, càng nhiều người sẽ bị hấp dẫn tới nó. Bây giờ, Cơ đốc giáo có gì trong nó ngoại trừ các hư cấu? Loại ra những hư cấu đó và chẳng cái gì còn lại. Không có cái gì bản chất.

Các học giả Kinh Thánh liên tục chỉ ra rằng phép màu được kể về Jesus là không đúng. Chúng không bao giờ xảy ra vì thậm chí không có nguồn đương đại nào tường thuật về chúng. Và các phép màu là tới mức chúng không thể xảy ra mà không được tường thuật. Đó là điều rất đơn giản. Người chỉ để tay mình vào mắt người mù và người này bắt đầu nhìn thấy; người biến nước thành rượu; người làm người chết trở lại sống… bạn nghĩ người như vậy sẽ không được tường thuật lại sao? Và ông ấy không phải là người Ki tô giáo, cho nên bạn không thể nói được rằng vì ông ấy đã là người Ki tô giáo, người Do Thái đã không tường thuật về ông ấy. Ông ấy được sinh ra là người Do Thái, ông ấy đã sống là người Do Thái, ông ấy đã chết là người Do Thái. Jesus không bao giờ biết rằng ông ấy đã là người Ki tô giáo.

Ki tô giáo được sinh ra ba trăm năm sau cái chết của Jesus. Ông ấy không bao giờ biết rằng mọi người sẽ biết ông ấy là Christ. Christ là từ Hi Lạp cho đấng cứu tinh; Messiah là từ Do Thái cho đấng cứu tinh.

Ki tô giáo dường như là tôn giáo thấp nhất, do đó nó hấp dẫn đám đông lớn nhất. Khi tôn giáo đi lên cao hơn, càng ít người hơn được hấp dẫn tới, vì càng ít người có thể hiểu nó.

Thông minh là không phổ biến. Bao nhiêu người có thể hiểu thuyết tương đối của Albert Einstein? Khi ông ấy còn sống một sự kiện nổi tiếng là đã chỉ có mười hai người trên khắp thế giới có thể hiểu điều ông ấy ngụ ý bởi tính tương đối.

Bertrand Russell, một trong những triết gia vĩ đại nhất của thế kỉ này, đã viết một cuốn sách về Albert Einstein. Ông ấy gọi nó là ABC về tính tương đối. Và khi ông ấy gặp Albert Einstein, Einstein đã hỏi, “Tại sao ông đã viết ABC, sao không là thứ toàn thể?”

Russell nói, “Tôi chỉ hiểu chính cái bắt đầu. Tôi không thể nói rằng tôi hiểu toàn thể ngụ ý của thuyết của ông. Tôi đã viết ABC vì đó là điều tôi hiểu. Ngày nào đó ai đó sẽ viết XYZ… có lẽ ông có thể viết nó.”

Mười hai người trên khắp thế giới – điều đó có làm cho thuyết tương đối sai không? Và sáu trăm triệu người Cơ đốc giáo “biết’ rằng Jesus được sinh ra từ người đàn bà đồng trinh – chỉ người ngu có thể tin vào điều đó. Rằng Jesus bước đi trên nước – chỉ người ngu có thể tin điều đó. Mọi hư cấu này đã từng được tạo ra để hấp dẫn đám đông.

Tôi đã nghe nói về một tổng giám mục của Anh, người tới thăm Jerusalem. Và ông ấy có hai người bạn cũ, cả hai đều là các giáo sĩ rất am tường. Cho nên ông ấy báo cho họ, “Tôi đang tới và tôi muốn thấy mọi chỗ mà Jesus đã ở.”

Hiển nhiên ông ấy quan tâm xem biển Galilee nơi Jesus thường bước đi trên nước. Hai giáo sĩ đưa ông ấy đi trong chiếc thuyền tới chỗ Jesus thường bước đi. Tổng giám mục hỏi, “Các ông cũng có thể bước đi chứ… vì các ông là các giáo sĩ lớn?”

Họ nói, “Tất nhiên.”

Ông ấy không thể tin được điều đó. Ông ấy nói, “Thế thì cho tôi chút ví dụ đi, vài bước thôi.”

Thế là một giáo sĩ bước xuống bên phải và đi trên nước – tổng giám mục không thể tin được điều đó – và ông này quay lại.

Hai giáo sĩ kia nói với ông ấy, “Ông có thể làm được nó chứ? Chúng tôi không tin vào Christ; ông tin vào Christ. Nếu đức tin của ông là đủ ông có thể bước.”

Bây giờ đó là vấn đề về đức tin. Đức tin bị lâm nguy. Tổng giám mục ngần ngại và run bên trong. Nhưng trước hai giáo sĩ này, bị thất bại sẽ là không đúng. Thế là ông ấy nói, “Được, tôi có thể làm. Tôi có đức tin. Nếu các ông những người không tin vào Jesus Christ có thể bước đi, sao tôi không thể?”

Và ông ấy bước đi từ bên trái thuyền và lập tức bắt đầu chìm và kêu to, “Cứu tôi với! Cứu!”

Thế là hai giáo sĩ kéo ông ấy trở lại. Họ nói, “Cái gì đã xảy ra vậy?”

Ông ấy nói, “Tôi không biết, nhưng tôi có đức tin mà.”

“Đức tin của ông dường như không giá trị gì mấy,” hai giáo sĩ kia nói.

Chung cuộc, giáo sĩ đã bước ra nói với giáo sĩ kia, “Chúng ta đáng phải nói cho ông này điều đúng chứ?”

Tổng giám mục nghe thấy họ thì thào. Ông ấy nói, “Các ông thì thào cái gì vậy?”

Họ nói, “Sự thực là, ông bước ra từ phía sai. Ở phía này, phía bên phải, có những hòn đá ngay bên dưới nước. Nước chỉ phủ trên chúng vài li, không hơn thế. Jesus thường bước ở đây, và mọi người Do Thái có thể bước được, người biết những tảng đá này. Nó không phải là đức tin, nó là đá!”

Cứ lấy đi mọi phép màu – và cái gì còn lại của Jesus? Lấy đi việc sinh đồng trinh – cái gì còn lại của Jesus? Lấy đi lời rêu rao của ông ấy mà tuyệt đối bệnh hoạn: “Ta là đứa con duy nhất của Thượng đế” – cái gì còn lại của Jesus? Chỉ là con trai thợ mộc bình thường cưỡi trên lừa – một trò cười!

Cho nên Vatican bây giờ đã thông báo cho mọi nhà thờ đừng chú ý tới bất kì học giả kinh thánh nào. Vì nếu bạn chú ý tới họ, họ sẽ phá huỷ toàn thể tôn giáo của bạn. Đây là toàn thể tôn giáo của họ.

Nhưng Phật Gautam đã không làm bất kì phép màu nào, cho nên bạn không thể phá huỷ Phật Gautam dễ dàng thế. Ông ấy không được sinh ra từ người đồng trinh, và ông ấy không phải là con trai duy nhất của Thượng đế. Bất kì điều không bản chất nào đều không có đó cho nên bạn không thể lấy đi bất kì cái gì. Nhưng chắc chắn ông ấy trở thành khó hiểu hơn cho đám đông.

Cách tiếp cận của ông ấy có thể được hiểu bởi những người rất thông minh. Cho nên ngay cả ở Ấn Độ… ông ấy đã được sinh ra ở Ấn Độ, nhưng tôn giáo của ông ấy đã biến mất khỏi Ấn Độ. Những đám đông của Ấn Độ đã không thể đi theo được ông ấy. Ông ấy đã không cho họ điều Maneesha gọi là “cái gì đó.” Ông ấy đã cho họ hư không, vì hư không là không gian thuần khiết.

Cái gì đó nhất định là cái gì đó trong tâm trí.

Hư không là bên ngoài tâm trí.

Phật Gautam đã biến mất sau cái chết của ông ấy rất nhanh. Trong hai nghìn năm trăm năm đã không có một phật tử nào ở Ấn Độ. Ngay cả trong đền mà vua Ashoka đã xây dựng như nơi tưởng niệm bên cạnh cây bồ đề nơi Phật Gautam đã trở nên chứng ngộ, tu sĩ là người brahmin. Thậm chí không có Phật tử ở nơi tưởng niệm để chăm nom ngôi đền.

Người brahmin đó không tin vào Phật. Ông ấy được trả tiền và ông ấy vẫn đang được trả tiền bởi các Phật tử từ bên ngoài Ấn Độ. Ông ấy không tin vào Phật, nhưng ông ấy chăm nom. Gia đình ông ấy đã từng chăm nom ngôi đền này trong hàng trăm năm, thế hệ tiếp thế hệ – chỉ là người trông nom nhà cửa. Ông ấy không tin vào Phật, ông ấy không nghĩ rằng Phật là người đúng để thuộc vào.

Nhưng Phật giáo lan toả ở Trung Quốc và Nhật Bản, ở Tây Tạng và Ceylon, ở Hàn quốc và Đài Loan – nó vươn tới những chỗ xa xăm. Ở Mông cổ, ở Afghanistan, trong vài nước mà bây giờ thuộc về Liên Xô, tượng và chùa Phật giáo đã được phát hiện ra.

Việc lan toả của nó là rộng, nhưng lí do cho việc lan toả của nó là ở chỗ các Phật tử, những người đã đi tới những chỗ đó bắt đầu thoả hiệp. Phật đã là người không thoả hiệp. Không con người của chân lí nào có thể thoả hiệp – không thành vấn đề. Điều thành vấn đề là chân lí trong sự thuần khiết của nó. Nhưng bao nhiêu người có khả năng vươn tới chiều cao đó, tới tâm thức đó, để hiểu? Chắc chắn rất ít người.

Cho nên mọi Phật tử trên toàn thể lục địa châu Á không phải là Phật tử đúng, họ đã thoả hiệp với tôn giáo địa phương của họ, họ bị trộn lẫn. Nếu Phật quay lại ông ấy sẽ đơn giản phủ nhận mọi Phật tử này vì họ đang làm cái gì đó mà ông ấy đã chống lại, tuyệt đối chống lại. Và họ toàn làm mọi điều đó chỉ như việc thoả hiệp.

Duy nhất Thiền đã không thoả hiệp – đó là lí do tại sao có kính trọng của tôi với Thiền. Nó đã duy trì một dòng suối rất nhỏ các thầy. Nó không bao giờ trở thành tôn giáo của đám đông – nó không thể vậy. Ngày nó trở thành tôn giáo của đám đông nó sẽ không là tôn giáo thêm nữa. Tình yêu của tôi với nó, kính trọng của tôi với nó là vì việc không thoả hiệp tuyệt đối, nó không quan tâm tới thu thập đám đông. Nó chỉ quan tâm tới những con người tiến hoá cao nhất. Đó cũng là mối quan tâm của tôi nữa. Đó là lí do tại sao bạn không thể thấy đám đông tới với tôi.

Ngày đám đông bắt đầu tới tôi, tôi sẽ không tới. Tôi ghét đám đông vô ý thức. Họ đã là nguyên nhân của việc giết người như Socrates, việc giết người như al-Hillaj Mansoor, việc giết người như Jesus. Có mọi khả năng rằng Phật Gautam cũng đã bị giết bởi việc cho chất độc. Họ đã cố giết Mahavira – nhiều nỗ lực.

Đám đông chống lại chân lí vì chân lí sẽ làm tan nát mọi dối trá của họ. Điều Maneesha gọi là “cái gì đó” – cái gì đó đó là dối trá, là an ủi.

Không người nào yêu chân lí sẽ an ủi bạn.

Người đó sẽ phá huỷ mọi an ủi của bạn. Người đó có đó để lấy đi mọi dối trá của bạn để cho bạn có thể vươn lên đỉnh tối thượng của tâm thức. Nhưng đỉnh đó tới với bạn khi bạn không còn nữa.

Khi không có gì bên trong bạn, thế thì toàn thể sự tồn tại đơn giản bắt đầu trút xuống bạn an bình, yêu, im lặng, cực lạc và say sưa thiêng liêng.

 

Từ “Tôi mở hội bản thân tôi: Thượng đế không ở đâu, Sự sống ở đây bây giờ”, Ch.3