Thiền là sự sống của hồn

Tôi yêu phát biểu này rằng “con người của thiền bước trong thiền và ngồi trong thiền” bởi lẽ đơn giản là thiền không thể chỉ là một phần của cuộc đời bạn. Bạn không thể làm một mảnh đời bạn có tính thiền; điều không thể được là có tính thiền trong một giờ và thế rồi phi thiền trong hai mươi ba giờ. Điều đó là tuyệt đối không thể được. Nếu bạn đang làm điều đó, điều đó có nghĩa là thiền của bạn là giả.

Thiền hoặc có thể là chuyện hai mươi bốn giờ hoặc nó không thể là thiền chút nào. Nó giống như việc thở: bạn không thể thở trong một giờ và thế rồi gạt nó sang bên trong hai mươi ba giờ, nếu thế thì bạn sẽ chết. Bạn phải liên tục thở. Ngay cả khi bạn ngủ bạn phải liên tục thở. Ngay cả trong cơn mê sâu bạn phải liên tục thở.

Thiền là hơi thở của hồn bạn. Cũng như việc thở là sự sống của thân thể, thiền là sự sống của hồn.

Những người không nhận biết về thiền là chết về tâm linh.

George Gurdjieff thường nói rằng rất ít người có hồn – và ông ấy là đúng. Người ta được sinh ra không có hồn mà chỉ có hạt mầm, cái có thể trưởng thành trong hồn – cái có thể không trưởng thành. Điều đó sẽ tuỳ thuộc vào bạn. Bạn sẽ phải tạo ra mảnh đất đúng, khí hậu đúng cho nó phát triển, nở hoa. Bạn sẽ phải khơi gợi mùa xuân tới cho bạn để cho hồn bạn có thể nở hoa, bằng không bạn chỉ là thân thể-tâm trí. Hồn chỉ là lời trống rỗng. Thiền làm cho nó thành thực tại. Thiền là bầu khí hậu trong đó hồn xảy ra.

Zen là cái tên khác cho thiền. Từ zen bắt nguồn từ gốc tiếng Phạn dhyan – nó đã du hành xa. Dhyan nghĩa là trạng thái tuyệt đối im lặng, im lặng vô ý nghĩ, nhưng đầy nhận biết. Ngay cả ý nghĩ rằng “Tôi nhận biết” là đủ làm sao lãng bạn khỏi thiền của bạn. Ngay cả biết rằng “tôi đang trong thiền” là đủ để phá huỷ nó.

Trạng thái của thiền là trạng thái hồn nhiên, im lặng. Bạn vô nhận biết một cách phúc lạc về nhận biết của bạn. Bạn hiện hữu, nhưng bạn hoàn toàn được thảnh thơi. Bạn không trong trạng thái ngủ; bạn tràn đầy tỉnh táo, tỉnh táo hơn bao giờ. Thay vì thế, bạn là sự tỉnh táo.

Thiền là đóng góp lớn của phương Đông cho tiến hoá của nhân loại.

Bản thân Phật không bao giờ dùng tiếng Phạn; ông ấy dùng ngôn ngữ đã được số đông người thời đó dùng, ông ấy đã dùng tiếng Pali. Trong tiếng Pali, dhyan trở thành jhan. Khi thông điệp của Phật lan tới Trung Quốc, jhan trở thành chan. Và khi nó đi từ Trung Quốc sang Nhật Bản, nó trở thành zen. Nhưng nó bắt nguồn từ dhyan. Dhyan nghĩa là thiền, nhưng từ tiếng Anh “meditation” không có hương vị đó, nó có liên kết lâu dài với suy ngẫm. Từ tiếng Anh “meditation” ngụ ý suy ngẫm về cái gì đó; có đối thể của suy ngẫm.

Và trong Thiền không có đối thể chút nào, chỉ tính chủ thể thuần khiết. Bạn nhận biết, nhưng không nhận biết về cái gì đó. Không có cái gì để nhận biết về; mọi thứ đã biến mất. Bạn thậm chí không nhận biết về không cái gì, vì thế thì không cái gì trở thành đối thể của bạn, thế thì không cái gì trở thành ý nghĩ của bạn. Bạn không nhận biết về trống rỗng nữa. Bạn đơn giản là nhận biết; không có đối thể cho nhận biết của bạn. Gương là trống rỗng, không phản xạ cái gì, vì không có cái gì để phản xạ.

Bạn phải nhớ điều đó, bằng không “meditation” có thể cho bạn ấn tượng sai. Bất kì khi nào từ “meditation” được dùng, lập tức câu hỏi nảy sinh, “Về cái gì?” Câu hỏi đó là không liên quan. Nếu bạn hỏi, “Về cái gì?” thế thì bạn đang hỏi nghĩ về cái gì, suy tư về cái gì, tập trung vào cái gì – và điều đó không phải là thiền.

Tập trung không phải là thiền, tập trung là nỗ lực của tâm trí để hội tụ bản thân nó. Nó có chủ định nào đó của riêng nó. Nó là phương pháp trong khoa học – hữu dụng, nhưng nó không phải là thiền.

Suy ngẫm có mơ hồ hơn chút ít, trừu tượng hơn. Trong tập trung, đối thể là thấy được hơn; trong suy ngẫm, đối thể là trừu tượng. Bạn tập trung vào ngọn lửa của đèn; bạn suy ngẫm về yêu. Và trong Ki tô giáo, suy ngẫn và thiền đã trở thành đồng nghĩa.

Meditation phải được cho nghĩa mới, hương thơm mới – hương thơm của Thiền. Tập trung là của tâm trí, thiền không phải là của tâm trí chút nào, và suy ngẫm chỉ là ở giữa, trong tình trạng lấp lửng. Nó là cái gì đó của tâm trí và cái gì đó của vô trí, sự trộn lẫn; trạng thái nơi tâm trí và vô trí gặp gỡ, đường biên.

Người ta phải đạt tới trạng thái nhận biết tuyệt đối: đó là Thiền. Bạn không thể làm nó mọi sáng trong vài phút hay nửa giờ và thế rồi quên tất cả về nó. Nó phải trở thành giống như nhịp tim đập của bạn. Bạn phải ngồi trong nó, bạn phải bước trong nó. Vâng, bạn thậm chí phải ngủ trong nó.

 

Ananda, một trong những đại đệ tử của Phật Gautam, đã hỏi Phật, “Một điều bao giờ cũng gây thách đố cho tôi và tôi không thể kìm được tò mò thêm nữa mặc dầu câu hỏi của tôi là không liên quan. Câu hỏi là ở chỗ khi thầy đi ngủ thầy vẫn còn ở trong cùng tư thế suốt cả đêm. Bất kì chỗ nào thầy để tay, chân, bất kì chỗ nào thầy nằm lên, thầy vẫn còn đích xác như vậy, như bức tượng. Thầy không cử động, thầy không đổi bên, thầy không chuyển tay, chân – không cái gì thay đổi. Thầy thức dậy buổi sáng trong đích xác cùng tư thế mà thầy đã đi vào giấc ngủ. Một đêm, chỉ vì tò mò, tôi đã nhìn thầy cả đêm – không một chuyển động. Thầy kiểm soát bản thân thầy ngay cả trong giấc ngủ sao?”

Phật nói, “Không có vấn đề kiểm soát. Ta thức tỉnh, ta trong thiền. Ta ngủ trong thiền. Cũng như khi ta thức dậy sáng sớm trong thiền, mọi đêm ta đi vào giấc ngủ trong thiền. Ngày của ta là thiền của ta, đêm của ta cũng vậy. Ta vẫn còn tuyệt đối bình thản và yên tĩnh vì sâu bên dưới ta nhận biết hoàn hảo. Ngọn lửa của thiền liên tục bùng cháy không khói. Đó là lí do tại sao không có nhu cầu cử động.”

 

Từ “Bước trong Thiền, ngồi trong Thiền”, Ch.1