Để chất liệu tâm trí
vào sự tinh vi không thể diễn đạt được thế
ở trên, ở dưới và ở trong tâm ông.
Ba điều. Thứ nhất, nếu tri thức là quan trọng thế thì cái đầu là trung tâm; nếu hồn nhiên như trẻ thơ là quan trọng thế thì tâm là trung tâm. Đứa trẻ sống trong tâm; chúng ta sống trong đầu. Đứa trẻ cảm; chúng ta nghĩ. Ngay cả khi chúng ta nói chúng ta cảm, chúng ta nghĩ rằng chúng ta cảm. Suy nghĩ trở thành chính cho chúng ta, việc cảm trở thành phụ. Suy nghĩ là công cụ cho khoa học, việc cảm là công cụ cho tôn giáo.
Bạn phải bắt đầu là con người cảm lần nữa. Và cả hai chiều này là khác nhau. Khi bạn nghĩ, bạn vẫn còn tách rời; khi bạn cảm, bạn tan chảy.
Nghĩ về đoá hoa, hoa hồng mà xem. Khi bạn nghĩ, bạn là tách rời, có kẽ hở, khoảng cách, không gian. Với suy nghĩ, không gian được cần; để ý nghĩ chuyển động, khoảng cách được cần. Cảm đoá hoa và kẽ hở biến mất, khoảng cách mất đi. Vì với cảm, khoảnh cách là rào chắn. Bạn càng tới gần, bạn càng cảm nhiều. Một khoảnh khắc tới khi ngay cả sự gần gũi dường như là một loại khoảng cách – và thế rồi việc tan chảy xảy ra. Thế thì bạn không thể cảm thấy các biên giới của nơi bạn đang hiện hữu và nơi hoa hiện hữu, về nơi bạn kết thúc và nơi hoa bắt đầu. Thế thì các biên giới tan chảy vào trong nhau: hoa đi vào bạn theo cách nào đó, bạn đi vào hoa theo cách nào đó. Việc cảm là việc làm mất đi các biên giới; suy nghĩ đang tạo ra các biên giới. Đó là lí do tại sao suy nghĩ bao giờ cũng nhấn mạnh vào các định nghĩa, vì không có định nghĩa bạn không thể tạo ra biên giới.
Suy nghĩ nói định nghĩa trước hết, còn cảm nói không định nghĩa. Nếu bạn định nghĩa, việc cảm dừng lại.
Trẻ thơ cảm; chúng ta nghĩ. Trẻ thơ tới gần sự tồn tại, nó tan chảy và cho phép sự tồn tại tan chảy trong nó. Chúng ta bị cô lập, bị cầm tù trong cái đầu. Chúng ta giống như các hòn đảo.
Kinh này nói quay trở lại trung tâm tâm. Bắt đầu cảm mọi thứ. Nó sẽ là một thực nghiệm lớn nếu bạn bắt đầu cảm mọi thứ. Bất kì cái gì bạn làm, dành một lượng nào đó về thời gian và năng lượng của bạn cho việc cảm. Bạn đang ngồi ở đây, bạn có thể lắng nghe tôi – nhưng đó sẽ là một phần của suy nghĩ. Bạn cũng có thể cảm tôi ở đây nhưng điều đó sẽ không là một phần của suy nghĩ. Nếu bạn có thể cảm sự hiện diện của tôi, thế thì các định nghĩa bị mất. Thế thì thực sự, nếu bạn đi tới một khoảnh khắc của cảm, bạn không biết ai đang nói và ai đang nghe. Điều này có thể xảy ra ngay chính khoảnh khắc này. Thế thì diễn giả trở thành người nghe và người nghe trở thành diễn giả. Thế thì thực sự họ không phải là hai, thay vì thế, họ là hai cực của một hiện tượng: ở cực này là người nói, ở cực kia là người nghe. Nhưng đây chỉ là các cực, bị cô lập. Chúng không là thực. Điều thực ở ngay giữa hai cực này – sự sống, việc chảy. Bất kì khi nào bạn cảm, cái gì đó khác hơn bản ngã của bạn trở thành quan trọng. Đối thể và chủ thể mất định nghĩa của chúng. Việc chảy, con sóng tồn tại – trên cực này là người nói, trên cực kia là người nghe, nhưng sự sống là sóng.
Cái đầu cho bạn sự sáng tỏ, và vì sự sáng tỏ này nhiều lẫn lộn đã đi vào hiện hữu vì cái đầu định nghĩa rõ ràng, đánh dấu biên giới, làm ra bản đồ. Với lí trí, mọi thứ là rõ ràng: không mơ hồ, không huyền bí nào là được phép. Mọi thứ mơ hồ bị bác bỏ, chỉ cái rõ ràng là thực. Lí trí cho bạn sự sáng tỏ, và vì sự sáng tỏ, hiểu lầm lớn nảy sinh. Sáng tỏ không phải là thực tại. Thực tại bao giờ cũng không rõ ràng, mơ hồ. Khái niệm là rõ ràng, thực lại là huyền bí; khái niệm là hợp lí, thực tại là bất hợp lí.
Lời là rõ ràng, logic là rõ ràng, sự sống là không rõ ràng. Tâm cho bạn sự mơ hồ tan chảy. Nó đạt tới thực tại một cách thân mật hơn, nhưng nó không rõ ràng. Và bởi vì chúng ta đã chọn sự rõ ràng làm mục đích, chúng ta đã bỏ lỡ thực tại. Bạn phải có con mắt không rõ ràng để đi vào thực tại lần nữa. Bạn phải mơ hồ, bạn phải sẵn sàng đi vào trong cái gì đó mà không thể được quan niệm, vào trong cái gì đó không logic, vào trong cái gì đó gây choáng váng và thực, gây choáng váng và sống động.
Sáng tỏ là chết. Nó vẫn còn bị cố định. Sống là luồng, không cái gì cố định, không cái gì vẫn còn là cùng cái cũ vào khoảnh khắc tiếp. Làm sao bạn có thể là rõ ràng về nó? Nếu bạn nhấn mạnh quá nhiều vào sự sáng tỏ bạn sẽ đánh mất tiếp xúc với nó. Đó là điều đã xảy ra.
Kinh này nói rằng điều cơ bản là quay lại trung tâm tâm – nhưng làm sao tới nó? Để chất liệu tâm trí vào sự tinh vi không thể diễn đạt được thế ở trên, ở dưới và ở trong tâm ông.
Từ ‘chất liệu tâm trí’ không phải là việc dịch tốt của từ tiếng Phạn nguyên gốc chitt. Nhưng tiếng Anh không có từ khác tương đương. Cho nên nó là tốt theo một cách nào đó, nó mang nghĩa, không của của ‘tâm trí’ mà của ‘chất liệu tâm trí’.
Tâm trí ngụ ý trạng thái tâm lí, suy nghĩ, ý nghĩ, và chất liệu tâm trí ngụ ý bối cảnh trên đó các ý nghĩ này nổi – cũng như trên trời mây bay. Mây là ý nghĩ và trời là bối cảnh trên đó chúng di chuyển. Trời đó, tâm thức, đã được gọi là chất liệu tâm trí. Tâm trí của bạn có thể hiện hữu mà không có ý nghĩ; thế thì nó là chitt, thế thì nó là tâm trí thuần khiết. Khi nó có ý nghĩ nó là tâm trí không thuần khiết.
Nếu tâm trí của bạn có thể hiện hữu mà không có ý nghĩ, thế thì nó là thứ rất tinh tế, tinh tế nhất có thể trong sự tồn tại. Bạn không thể quan niệm được về một khả năng tinh tế hơn. Tâm thức là thứ tinh tế nhất. Cho nên khi không có ý nghĩ trong tâm trí, bạn có tâm trí thuần khiết. Tâm trí thuần khiết có thể chuyển tới tâm, tâm trí không thuần khiết không thể chuyển được. Bởi không thuần khiết tôi không ngụ ý bất kì ý nghĩ vô đạo đức nào trong tâm trí, bởi không thuần khiết tôi ngụ ý mọi ý nghĩ – ý nghĩ như vậy là không thuần khiết.
Cho dù bạn đang nghĩ về Thượng đế nó là không thuần khiết, vì mây đang di chuyển. Mây rất trắng, nhưng mây có đó và sự thuần khiết của không gian không có đó. Bầu trời không mây không có đó. Mây có thể là mây đen, ý nghĩ dục chuyển qua trong tâm trí, hay mây có thể là mây trắng, đẹp, lời cầu nguyện chuyển qua tâm trí, nhưng trong cả hai trường hợp tâm trí thuần khiết không có đó. Nó là không thuần khiết, bị mây che. Và nếu tâm trí bị mây che bạn không thể di chuyển vào tâm.
Điều này phải được hiểu vì với ý nghĩ bạn bám lấy cái đầu. Ý nghĩ là rễ, và chừng nào những rễ này chưa bị chặt đi bạn không thể rơi trở lại tâm.
Đứa trẻ vẫn còn trong tâm chỉ tới khoảnh khắc các ý nghĩ kết tinh, rằng ý nghĩ bắt đầu nổi trong tâm trí nó. Thế rồi chúng bắt rễ; thế rồi qua giáo dục, văn hoá, trau dồi, chúng trở nên được bắt rễ; thế rồi dần dần tâm thức chuyển từ tâm sang đầu. Tâm thức có thể vẫn còn trong đầu chỉ nếu có ý nghĩ. Điều này là cơ bản. Nếu không có ý nghĩ, tâm thức lập tức rơi trở lại hồn nhiên nguyên thuỷ của nó ở trong tâm.
Do đó có nhiều nhấn mạnh thế vào thiền, nhiều nhấn mạnh thế vào vô suy nghĩ, vào nhận biết vô ý nghĩ, vào nhận biết vô chọn lựa, hay ‘chính niệm’ của Phật, điều chính là lưu tâm mà không có ý nghĩ nào, chỉ là nhận biết. Thế thì điều gì xảy ra? Một hiện tượng rất lớn xảy ra vì khi rễ bị chặt đi, ngay lập tức tâm thức rơi trở lại tâm, tới chỗ nguyên thuỷ nơi nó đã từng ở. Bạn lại trở thành đứa trẻ.
Jesus nói, “Chỉ những người giống như trẻ thơ sẽ đi vào trong vương quốc của Thượng đế của ta.” Ông ấy nói tới những người có tâm thức đã quay lại tới tâm. Họ đã trở thành hồn nhiên, như trẻ thơ.
Nhưng yêu cầu cơ bản đầu tiên là Để chất liệu tâm trí vào sự tinh vi không thể diễn đạt được….
Ý nghĩ có thể được diễn đạt. Không có một ý nghĩ nào mà là không thể diễn đạt được, mà cũng không thể có được. Nếu nó là không thể diễn đạt được bạn không thể nghĩ được nó; nếu bạn có thể nghĩ nó, nó là diễn đạt được. Không có một ý nghĩ nào mà bạn có thể nói ra là không thể diễn đạt được. Khoảnh khắc bạn có thể nghĩ nó, nó đã trở thành diễn đạt được – bạn đã diễn đạt nó cho bản thân bạn.
Tâm thức, tâm thức thuần khiết, là không thể diễn đạt được. Đó là lí do tại sao các nhà huyền bí liên tục nói rằng họ không thể diễn đạt được điều họ biết. Các nhà logic bao giờ cũng nêu ra câu hỏi rằng nếu bạn biết, thế thì tại sao bạn không thể nói được nó? Và luận cứ của họ có nghĩa và ý nghĩa. Nếu bạn thực sự nói rằng bạn biết thế thì tại sao bạn không thể diễn đạt được nó?
Với nhà logic, tri thức phải là diễn đạt được – cái mà có thể được biết thì có thể được làm cho người khác biết, không có vấn đề gì. Nếu bạn đã biết nó, thế thì vấn đề là gì? Bạn có thể làm cho nó thành được biết với người khác. Nhưng tri thức của nhà huyền bí không phải là ý nghĩ. Ông ấy đã không biết nó như ý nghĩ, ông ấy đã biết nó như việc cảm. Cho nên thực sự, nói “Tôi biết Thượng đế” là không ổn. Tốt hơn cả là nói, “Tôi cảm.” Nói “Tôi đã biết Thượng đế” là không ổn. Tốt hơn cả là nói, “Tôi đã cảm thấy ngài.” Điều đó là mô tả chính xác hơn về hiện tượng này vì ‘tri thức’ thông qua tâm giống như việc cảm, nó không giống tri thức.
Để chất liệu tâm trí vào sự tinh vi không thể diễn đạt được…. Chất liệu tâm trí, tâm thức, chitt, là không thể diễn đạt được. Nếu một ý nghĩ chuyển qua, nó là diễn đạt được. Cho nên, để chất liệu tâm trí vào sự tinh vi không thể diễn đạt được ngụ ý đi tới điểm mà bạn có ý thức, nhưng không có ý thức về bất kì ý nghĩ nào; nơi bạn tỉnh táo, nhưng không có ý nghĩ chuyển trong tâm trí. Đây là điểm tinh tế và rất khó – bạn có thể bỏ lỡ nó dễ dàng.
Chúng ta biết hai trạng thái của tâm trí. Một là khi ý nghĩ có đó. Khi ý nghĩ có đó, bạn không thể chuyển tới tâm. Thế rồi chúng ta biết trạng thái khác của tâm trí – khi ý nghĩ không có đó. Khi ý nghĩ không có đó, bạn rơi vào giấc ngủ. Thế nữa, bạn không thể chuyển tới tâm. Mọi đêm, trong vài khoảnh khắc, trong vài giờ, bạn rơi ra khỏi suy nghĩ. Ý nghĩ dừng lại, nhưng bạn không đạt tới tâm vì bạn vô ý thức. Cho nên một cân bằng rất tinh tế được cần. Ý nghĩ phải dừng lại như chúng dừng trong ngủ say, khi không có mơ – và bạn phải tỉnh táo như bạn vậy khi thức. Hai điểm này phải gặp gỡ. Tâm trí phải là vô ý nghĩ như nó ở trong ngủ say, nhưng bạn phải không ngủ, bạn phải tỉnh táo hoàn hảo, nhận biết.
Khi nhận biết và việc vô suy nghĩ này gặp gỡ, nó là thiền. Đó là lí do tại sao Patanjali nói rằng samadhi là giống như sushupti. Cực lạc cao nhất, samadhi, là giống như ngủ say nhất, chỉ với một khác biệt: trong nó bạn không ngủ. Nhưng phẩm chất là như nhau – vô ý nghĩ, không mơ, không rối loạn, không một gợn sóng, bình thản và yên tĩnh toàn bộ, nhưng tỉnh táo. Khi bạn nhận biết và không có ý nghĩ, bạn sẽ cảm thấy sự biến đổi bất thần trong tâm thức bạn. Trung tâm thay đổi. Bạn bị ném trở lại. Bạn bị ném về tâm. Và từ tâm, khi bạn nhìn ra thế giới, không có thế giới, chỉ có Thượng đế. Từ cái đầu, khi bạn nhìn hướng tới sự tồn tại, không có Thượng đế, chỉ có sự tồn tại vật chất.
Vật chất, sự tồn tại vật chất, thế giới, và Thượng đế không phải là hai điều, hai cái nhìn, hai cảnh quan. Chúng là cùng hiện tượng được nhìn từ hai trung tâm của con người.
Để chất liệu tâm trí vào sự tinh vi không thể diễn đạt được thế ở trên, ở dưới và ở trong tâm ông. Ở trong nó toàn bộ, được hội nhập, được chìm vào. Đơn giản là tâm thức, ở trên, ở dưới, trong tâm; toàn thể tâm được bao quanh bởi tâm thức đơn giản; không suy nghĩ bất kì cái gì nói riêng, chỉ là nhận biết, không lời, không nói thành lời, không suy nghĩ chút nào, chỉ hiện hữu.
Để chất liệu tâm trí ở trên, dưới, và trong tâm bạn, và mọi thứ sẽ trở thành có thể cho bạn. Mọi cánh cửa của cảm nhận sẽ được lau sạch và mọi cửa của điều huyền bí sẽ được mở. Đột nhiên sẽ không có vấn đề gì, và đột nhiên sẽ không có khổ – dường như bóng tối đã biến mất hoàn toàn. Một khi bạn biết điều này bạn có thể chuyển lại đầu nhưng bạn sẽ không là như cũ. Bây giờ bạn có thể dùng cái đầu như dụng cụ. Bạn có thể làm việc với nó, nhưng bây giờ bạn không bị đồng nhất với nó, và ngay cả khi làm việc với nó và nhìn vào thế giới qua nó, bạn sẽ biết rằng bất kì cái gì bạn đang thấy là do trí tuệ thôi. Bây giờ bạn quen với quan điểm cao hơn, cái nhìn sâu hơn – và bất kì khoảnh khắc nào bạn muốn bạn có thể tụt lại sau.
Một khi bạn biết lối chuyển và cách tâm thức rơi lại thế nào; tuổi của bạn, quá khứ của bạn, kí ức của bạn và tri thức của bạn biến mất và bạn trở thành đứa trẻ lại mới được sinh ra – một khi bạn biết bí mật này, lối chuyển này, bạn có thể du hành tới điểm đó nhiều lần tuỳ bạn thích, và bạn có thể được làm tươi tắn lặp đi lặp lại. Nếu bạn phải chuyển lên trước, bạn có thể dùng nó; bạn có thể chuyển vào thế giới bình thường, làm việc nhưng không bị dính líu vào trong nó, vì sâu bên dưới bạn biết rằng cái được biết bởi trí tuệ là bộ phận. Nó không phải là toàn thể chân lí. Và chân lí bộ phận là nguy hiểm hơn dối trá, vì nó dường như là thực và bạn có thể bị lừa bởi nó.
Một số điểm thêm nữa. Khi bạn chuyển tới tâm, bạn nhìn vào sự tồn tại như một sinh linh toàn bộ. Tâm không phải là bộ phận, tâm không phải là một mảnh của bạn, tâm ngụ ý bạn trong tính toàn bộ của bạn. Tâm trí là một mảnh, tay là một mảnh, chân là một mảnh, dạ dầy là một mảnh, toàn thân được lấy theo các bộ phận là bị phân mảnh. Tim không là một mảnh. Đó là lí do tại sao tay tôi có thể bị cắt rời và tôi sẽ vẫn sống. Ngay cả não tôi có thể được loại ra và tôi sẽ vẫn sống, nhưng nếu tim mất đi, tôi mất đi.
Thực sự, toàn thân tôi có thể bị loại bỏ nhưng nếu tim tôi còn đập tôi vẫn sống. Tim ngụ ý tính toàn thể của bạn, cho nên khi tim không làm việc, bạn không còn đó. Mọi thứ khác chỉ là bộ phận, có thể bỏ được. Nếu tim đang đập bạn sẽ vẫn còn không bị động tới. Trung tâm của tâm là chính cốt lõi của sự tồn tại của bạn. Tôi có thể chạm vào bạn bằng tay tôi. Cái chạm đó sẽ cho tôi tri thức nào đó về bạn, về da của bạn, liệu nó mềm mại hay không. Tay sẽ cho tôi tri thức nào đó, nhưng tri thức sẽ là bộ phận vì tay không phải là cái toàn thể của tôi. Tôi có thể thấy bạn. Mắt tôi sẽ cho tri thức nào đó từ quan điểm khác nhưng điều đó sẽ không là cái toàn thể. Tôi có thể nghĩ về bạn – lại cùng một điều. Nhưng tôi không thể cảm thấy bạn trong tính bộ phận. Nếu tôi cảm thấy bạn chút nào tôi cảm thấy bạn trong cái toàn thể của bạn. Đó là lí do tại sao, chừng nào bạn chưa biết qua yêu, bạn không bao giờ biết cái toàn thể của bất kì người nào.
Chỉ yêu có thể làm lộ ra toàn thể nhân cách cho bạn, con người toàn thể, cái bản chất, cái toàn bộ. Vì yêu ngụ ý biết qua tâm, cảm qua tâm. Cho nên với tôi, việc cảm và việc biết không là hai mảnh của con người bạn. Việc cảm là toàn thể con người bạn và việc biết chỉ là một mảnh của nó.
Với tôn giáo yêu là tri thức cao nhất. Đó là lí do tại sao tôn giáo được diễn đạt dưới dạng thơ ca nhiều hơn dưới dạng khoa học. Thuật ngữ khoa học không thể được dùng, chúng thuộc và cõi của việc biết. Thơ ca có thể được dùng. Và những người đã đi tới biết thực tại qua yêu, bất kì cái gì họ nói đều trở thành thơ ca. Upanishads, Vedas, lời của Jesus hay Phật hay Krishna, chúng tất cả là những phát biểu thơ ca.
Không chỉ là trùng hợp ngẫu nhiên rằng mọi kinh sách tôn giáo cổ được viết trong thơ ca. Điều đó có ý nghĩa. Nó chỉ ra rằng có sự giống nhau nào đó giữa thế giới của nhà thơ và thế giới của nhà huyền bí. Nhà huyền bí cũng dùng ngôn ngữ của tâm.
Nhà thơ chỉ là nhà huyền môn trong những khoảnh khắc nào đó của chuyến bay, giống như khi bạn nhảy lên bạn có thể đi xa khỏi sức hút của trái đất, nhưng bạn lại trở lại nó. Nhà thơ nghĩa là một người đã từng trong những giây nào đó trên chuyến bay vào trong thế giới của nhà huyền bí. Người đó đã có những thoáng nhìn nào đó. Nhà huyền bí là người đã đi ra ngoài sức hút hoàn toàn, người sống trong thế giới của yêu, người sống qua tâm. Điều này đã trở thành chính chỗ trú ngụ của người đó. Với nhà thơ nó chỉ là thoáng nhìn: đôi khi người đó rơi xuống từ đầu tới tâm. Nhưng đây chỉ là cho thời gian hiện tại – lần nữa người đó trở lại cái đầu. Cho nên nếu bạn thấy bài thơ hay, đừng cố gặp nhà thơ đã viết ra nó vì bạn sẽ không gặp cùng người. Bạn sẽ thất vọng vì bạn sẽ gặp một người rất bình thường. Người đó đã có thoáng nhìn. Với những khoảnh khắc nào đó thực tại đã được khải lộ cho người đó và người đó đã đi xuống tới tâm. Nhưng người đó không biết lối chuyển. Người đó không phải là người chủ của nó. Nó đã là việc xảy ra và người đó không thể di chuyển tới nó bằng ý chí riêng của người đó.
Khi Coleridge chết ông ấy để lại quãng bốn mươi nghìn bài thơ không hoàn chỉnh. Ông ấy thực sự đã hoàn thành chỉ bẩy bài thơ trong cả đời mình. Ông ấy đã trở thành nhà thơ lớn, một trong những nhà thơ lớn nhất trên thế giới, nhưng ông ấy đã nhiều lần được hỏi, “Tại sao ông liên tục chất đống các bài thơ chưa hoàn chỉnh, và khi nào ông định hoàn chỉnh chúng?” Ông ấy nói, “Tôi không thể làm được bất kì cái gì. Đôi khi vài dòng tới tôi và thế rồi chúng dừng lại. Cho nên làm sao tôi có thể hoàn chỉnh chúng được? Tôi sẽ đợi. Tôi sẽ phải đợi. Nếu nó lại xảy ra và thoáng nhìn tới tôi, và tôi lại có thế giới được khải lộ cho tôi, thực tại, thế thì tôi sẽ hoàn chỉnh nó. Nhưng về phần riêng tôi, tôi chẳng thể làm được cái gì.” Ông ấy phải đã là một nhà thơ rất chân thành. Tìm ra những nhà thơ chân thành thế là khó, vì xu hướng của tâm trí là cung cấp. Nếu ba dòng đã tới thế thì bạn sẽ cung cấp dòng thứ tư, và dòng thứ tư sẽ giết chết cả ba dòng kia vì nó sẽ tới từ trạng thái tâm trí rất thấp – khi bạn quay lại trên đất.
Khi bạn nhảy, và bạn đã được tự do trong những khoảnh khắc nào đó khỏi sức hút, bạn có chiều hướng khác của hiện hữu.
Nhà thơ đi trên đất nhưng đôi khi ông ấy nhảy lên. Trong những cú nhảy đó ông ấy có các thoáng nhìn. Nhà huyền bí sống trong tâm. Ông ấy không đi trên đất, tâm đã trở thành chỗ trú ngụ của ông ấy. Cho nên ông ấy không thực sự tạo ra thơ ca nhưng bất kì cái gì ông ấy làm đều trở nên có tính thơ, bất kì cái gì ông ấy nói đều trở thành thơ ca. Thực sự, nhà huyền bí không thể dùng văn xuôi vì văn xuôi của ông ấy cũng là thơ ca – nó tới qua tâm, nó tới qua yêu.
Để chất liệu tâm trí vào sự tinh vi không thể diễn đạt được thế ở trên, ở dưới và ở trong tâm ông. Tâm là hiện hữu toàn bộ của bạn, và khi bạn là toàn bộ bạn có thể biết cái toàn bộ – nhớ điều này. Chỉ cái tương tự có thể biết cái tương tự. Khi bạn bị phân mảnh bạn không thể biết cái toàn bộ. Như bên trong, bên ngoài cũng vậy. Khi bạn là toàn bộ bên trong, thực tại toàn bộ bên ngoài được khải lộ cho bạn; bạn đã trở nên có năng lực biết nó, bạn đã thu được quyền biết nó. Khi bạn bị phân mảnh bên trong, thực tại bị phân mảnh bên ngoài. Cho nên bất kì cái gì bạn là bên trong sẽ là cái bên ngoài cho bạn.
Sâu trong tâm toàn thế giới là khác, động thái là khác. Tôi đang nhìn bạn. Nếu tôi nhìn bạn qua cái đầu, qua trí tuệ, qua một trong các bộ phận về việc biết của tôi, thế thì vài người bạn là ở đây, các cá nhân, các bản ngã – tách rời. Nhưng nếu tôi nhìn bạn qua tâm, thế thì các cá nhân không ở đây. Thế thì chỉ một tâm thức đại dương là ở đây và các cá nhân chỉ là những con sóng. Nếu tôi nhìn bạn qua tâm, thế thì bạn và người bên cạnh bạn không phải là hai, thế thì thực tại là ở giữa bạn và người cạnh bạn. Các bạn chỉ là hai cực, và thực tại là ở ngay giữa. Thế thì ở đây có đại dương tâm thức trong đó các bạn tồn tại như những con sóng. Nhưng sóng không tách rời, chúng được móc nối với nhau. Và bạn đang tan chảy mọi khoảnh khắc vào trong người khác, dù bạn biết điều đó hay không.
Hơi thở đã ở bên trong bạn chỉ mới khoảnh khắc trước đã rời khỏi bạn – giờ nó đang chuyển vào trong người bên cạnh bạn. Mới khoảnh khắc trước, nó đã là sự sống của bạn và bạn chắc đã chết nếu không có nó, và giờ nó đang chuyển vào người bên cạnh bên. Giờ nó là sự sống của người đó. Thân thể bạn liên tục toả ra những rung động, bạn là máy phát xạ, cho nên sinh lực của bạn thường xuyên chuyển vào người bên cạnh và sinh lực của người đó đang chuyển vào bạn.
Nếu tôi nhìn bạn từ tâm tôi, nếu tôi nhìn bạn bằng con mắt yêu thương, nếu tôi nhìn bạn một cách toàn bộ, thế thì bạn chỉ là điểm phát xạ, và sự sống đang chuyển liên tục từ bạn sang người khác và từ người khác sang bạn….
Và không chỉ trong phòng này, toàn thể vũ trụ là luồng sinh lực thường hằng. Nó liên tục chuyển động. Không có các đơn vị cá nhân, nó là một toàn thể càn khôn. Nhưng qua trí tuệ, càn khôn không bao giờ xuất hiện, chỉ các mảnh, các mảnh nguyên tử, xuất hiện. Và điều này không phải là vấn đề có thể được hiểu qua trí tuệ. Nếu bạn cố hiểu qua trí tuệ, sẽ không thể nào hiểu thấu được nó. Nó là cái nhìn khác toàn bộ, từ điểm khác của sự tồn tại.
Nếu bạn là toàn bộ bên trong, tính toàn bộ bên ngoài được khải lộ cho bạn. Một số người đã gọi khải lộ đó là nhận ra Thượng đế; một số người đã gọi nó là moksha, giải thoát; một số người đã gọi nó là niết bàn, việc dừng lại. Lời khác nhau, những lời khác hoàn toàn, nhưng chúng mang ý nghĩa về cùng một lõi, cùng một bản chất.
Một điều là cơ bản cho mọi cách diễn đạt này – cá nhân biến mất. Bạn có thể gọi nó là nhận ra Thượng đế, thế thì bạn không còn là cá nhân; bạn có thể gọi nó là giải thoát, thế thì bạn không còn là cái ngã; bạn có thể gọi nó là dừng lại – như Phật đã gọi nó – thế thì chỉ như chiếc đèn, ngọn lửa, dừng hiện hữu, biến mất, tản mác, bạn không thể tìm thấy nó ở bất kì chỗ nào lần nữa, bạn không thể định vị được nó, nó đã đi vào trong vô hiện hữu, cho nên cá nhân biến mất. Nhưng điểm này phải được cân nhắc kĩ lưỡng. Tại sao mọi tôn giáo đều nói rằng cá nhân, cái ngã, bản ngã, biến mất khi bạn nhận ra chân lí? Nếu mọi tôn giáo nhấn mạnh vào điều này, điều này có nghĩa là cái ngã phải là ảo vọng – bằng không làm sao nó có thể biến mất được? Cái ngã phải không hiện hữu ở đó thực sự, chỉ thế thì nó có thể biến mất. Điều này dường như ngược đời, nhưng điều này là vậy: chỉ cái không hiện hữu có thể biến mất. Cái sẽ còn kéo dài trong hiện hữu, nó không thể biến mất.
Chỉ bởi vì cái đầu một thực thể giả đã đi vào hiện hữu – cá nhân. Nếu bạn đi xuống tâm, thực thể giả biến mất. Nó đã là sáng tạo của cái đầu. Từ tâm càn khôn hiện hữu, cá nhân không hiện hữu; cái toàn thể hiện hữu, bộ phận không hiện hữu. Và nhớ, khi bạn không hiện hữu, bạn không thể tạo ra địa ngục; khi bạn không hiện hữu, bạn không thể trong khổ; khi bạn không hiện hữu, không thể có lo âu, không khổ. Mọi lo âu, mọi khổ, tồn tại vì bạn – cái bóng của cái bóng. Cái ngã là không thực, bản ngã là không thực, và bởi vì cái ngã không thực đó nhiều cái bóng không thực được tạo ra. Chúng đi theo bạn, bạn liên tục tranh đấu với chúng, nhưng bạn sẽ không bao giờ chiến thắng vì cơ sở liên tục bị ẩn kín bên trong bạn.
Swami Ramteerth đã nói ở đâu đó rằng ông ấy ở trong một nhà, nhà của một dân làng nghèo. Trẻ nhỏ của dân làng này đang chơi ngay trước lều, và mặt trời đang mọc và đứa trẻ nhìn thấy cái bóng của nó. Nó cố bắt cái bóng, nhưng nó càng di chuyển, cái bóng sẽ di chuyển phía trước. Đứa trẻ bắt đầu khóc. Nó đã thất bại. Nó cố theo mọi cách để bắt cái bóng, nhưng điều đó là không thể được. Bắt bóng là không thể được – không phải bởi vì cái bóng là thứ khó bắt thế, nó là không thể được vì đứa trẻ đã di chuyển để bắt nó. Khi nó di chuyển, cái bóng di chuyển phía trước. Bạn không thể bắt được cái bóng bởi vì cái bóng không có chất liệu, và chỉ cái có chất liệu có thể bị bắt.
Ramteerth đã ngồi đó. Ông ấy cười và đứa trẻ khóc, và người mẹ lúng túng chả biết làm gì. Làm sao an ủi đứa trẻ? Thế là cô ấy nói với, “Swamiji ơi, ông có thể giúp tôi được không?” Ramteerth đi tới đứa trẻ, cầm tay nó và đặt lên đầu nó – cái bóng bị bắt. Vì đứa trẻ đã để tay nó lên đầu nó, cái bóng đã bị bắt. Đứa trẻ bắt đầu cười. Giờ nó có thể thấy rằng tay nó đã bắt được cái bóng.
Bạn không thể bắt được cái bóng, nhưng bạn có thể bắt được bản thân bạn. Và khoảnh khắc bạn bắt được bản thân bạn, cái bóng bị bắt.
Khổ chỉ là cái bóng của bản ngã. Tất cả chúng ta đều giống như đứa bé kia, tranh đấu với khổ, lo âu, phiền não, và cố làm tản mác chúng. Chúng ta không bao giờ có thể chiến thắng. Vấn đề không phải là sức mạnh – toàn thể nỗ lực này là ngớ ngẩn, không thể được. Bạn phải bắt lấy cái ngã, bản ngã, và một khi bạn bắt được nó, khổ đột nhiên biến mất. Nó chỉ là cái bóng.
Có những người bắt đầu tranh đấu với cái ngã. Điều đã được dạy là, “Làm tan rã cái ngã, là vô ngã, và ông sẽ trong phúc lạc,” cho nên họ bắt đầu tranh đấu với cái ngã, bản ngã. Nhưng nếu bạn tranh đấu bạn vẫn tin rằng cái ngã tồn tại. Tranh đấu của bạn sẽ cho nó thức ăn, việc đó sẽ trở thành thứ trao năng lượng cho nó, bạn sẽ nuôi dưỡng nó. Kĩ thuật này nói đừng nghĩ về bản ngã, chỉ chuyển từ đầu xuống tâm và bản ngã sẽ biến mất. Bản ngã là phóng chiếu của cái đầu. Đừng tranh đấu với nó. Bạn có thể liên tục tranh đấu trong nhiều kiếp, nhưng nếu bạn vẫn còn trong cái đầu, bạn không thể thắng.
Chỉ thay đổi quan điểm, chỉ chuyển từ đầu sang quan điểm khác, sang quan điểm sâu hơn của hiện hữu, và toàn thể sự việc thay đổi vì bây giờ bạn có thể nhìn từ cảnh quan khác. Từ tâm không có bản ngã. Vì điều này chúng ta đã trở nên sợ tâm. Chúng ta không bao giờ cho phép nó có cách thức riêng của nó, chúng ta bao giờ cũng can thiệp vào nó, chúng ta bao giờ cũng mang tâm trí vào nó. Chúng ta cố kiểm soát tâm qua tâm trí vì chúng ta đã trở nên sợ – nếu bạn chuyển tới tâm, bạn đánh mất bản thân bạn. Và việc mất này giống như chết. Do đó không có năng lực để yêu, do đó có sợ rơi vào yêu. Vì bạn mất bản thân bạn, bạn không trong kiểm soát. Cái gì đó lớn hơn nắm giữ bạn và chiếm sở hữu. Thế thì bạn không ở trên đất vững chắc và bạn không biết bạn đang chuyển đi đâu. Cho nên cái đầu nói, “Đừng là kẻ ngu, đi với lí trí đi. Đừng là điên.”
Bất kì khi nào ai đó trong yêu, mọi người nghĩ rằng người đó là điên. Bản thân người đó nghĩ rằng cái gì đó đã phát rồ, “Mình không còn trong ý thức của mình!” Tại sao điều đó xảy ra? Vì bây giờ không có kiểm soát. Cái gì đó đang xảy ra mà người đó không thể kiểm soát được, người đó không thể quản lí và thao túng được. Thay vì thế, cái gì đó đang thao túng người đó, một lực lớn hơn đã tiếp quản người đó. Người đó bị sở hữu….
Nhưng chừng nào bạn chưa sẵn sàng để bị sở hữu thì không thể có Thượng đế nào cho bạn. Chừng nào bạn chưa sẵn sàng bị sở hữu thì không có điều huyền bí nào dành cho bạn, và không phúc lạc nào, không phúc lành nào. Người sẵn sàng bị sở hữu bởi yêu, bởi lời cầu nguyện, bởi càn khôn, ngụ ý người sẵn sàng chết đi như bản ngã. Chỉ người đó có thể biết sống thực sự là gì, sống phải cho cái gì. Cái là có thể thì trở thành thực tại ngay lập tức, nhưng bạn phải đặt bản thân bạn vào lâm nguy.
Kĩ thuật này là hay. Nó không nói bất kì cái gì về bản ngã của bạn. Nó không nói bất kì cái gì về điều đó. Nó đơn giản cho bạn kĩ thuật, và nếu bạn tuân theo kĩ thuật này, bản ngã sẽ biến mất.
Từ “Vigyan Bhairav Mật tông – tập 4, Ch.65”