Diễn đạt sự sống theo khẳng định hay phủ định hay cả hai

Trong khi kể ra các đặc trưng của một người mà được thích nghi trong Đạo, Lão Tử nói rằng người như vậy không làm tuyên bố nào về bản thân mình. Nhưng Mansoor đã nói, “Analhaq.” Các rishi của Upanishad đã nói, “Aham Brahmasmi”. Jesus đã nói, “Ta là con trai của Thượng đế.” Meher Baba đã nói, “Ta là Avatar.” Làm sao những tuyên bố này được kết nối với những lời được nhắc tới trên của Lão Tử?

 

Chúng ta phải biết hai điều rõ ràng nếu chúng ta định hiểu lời kinh này. Một là, đây là hai cách hiểu cuộc sống, hiểu cách biểu lộ nó, cách diễn đạt nó. Một cách là khẳng định; cách kia là phủ định. Bất kì khi nào chúng ta phải nói cái gì đó, chúng ta có thể nói nó theo hai cách. Nếu căn phòng này tối, chúng ta có thể nói căn phòng là tối hay không có sáng trong phòng. Chúng ta có thể nói rằng một người là sống hoặc rằng người đó là không chết. Cho nên có hai mặt của diễn đạt: khẳng định và phủ định. Điều đó tuỳ thuộc toàn bộ vào cá nhân, người đó chọn dùng mặt nào. Lão Tử và Phật ưa thích mặt phủ định. Bất kì cái gì họ nói, họ nói theo phủ định. Điều này có lí do của nó, nhiều lí do. Lí do quan trọng nhất là ở chỗ Phật thấy rằng, ở mọi nơi, bất kì cái gì mà được nói theo mặt khẳng định và nhiều người tin điều này, bị làm cho lầm đường lạc lối. Chẳng hạn, một người nói, “Ta là Thượng đế.” Bây giờ có hai điều. Một điều là ở chỗ người này có thể nói chân lí và điều kia là ở chỗ người này có thể nói dối; người này có thể là kẻ đạo đức giả. Cả hai đều là có thể. Chín mươi chín trong một trăm người như vậy, người tuyên bố “Ta là Thượng đế” là người nói dối. Bản ngã của người lấy làm vui thích trong việc đưa ra tuyên bố này. Cách thức của bản ngã là rất tinh vi – và cái gì có thể làm vui lòng bản ngã nhiều hơn là cảm thấy “Ta là Thượng đế”? Cho nên Phật, cũng như Lão Tử, đã cảm thấy rằng loại tuyên bố thế này là rất có hại.

Không phải là phát biểu này nhất thiết là sai. Khi Mansoor nói, “Ta là Thượng đế” (ana’l haq), ông ấy đã nói chân lí này. Về phần ông ấy, không có sai lầm. Khi Mansoor nói, “Ta là Thượng đế” điều ông ấy nói là ở chỗ một mình Thượng đế hiện hữu; tôi không hiện hữu. Khi rishi của Upanishad nói, “aham brahmasmi,” ông ấy cũng ngụ ý, “Tôi ở đâu? Tôi không ở đâu cả. Duy nhất Thượng đế hiện hữu.” Điều này có thể là đúng nếu nó là chân lí, nhưng ngay cả người điên cũng có thể công bố, “Ta là Thượng đế!” Người đó không thể bị dừng khỏi việc làm như vậy. Nguy hiểm nằm ở sự kiện rằng những người như vậy cũng có thể gây ấn tượng cho người khác và ảnh hưởng tới họ, hậu quả là làm cho họ lầm đường lạc lối.

Cho nên Phật và Lão Tử chống lại mọi lời tuyên bố. Họ nói, “Thánh nhân không tuyên bố.” Nhưng là im lặng cũng là tuyên bố. Bất kì cái gì người làm, tuyên bố nhất định có đó. Bây giờ, nếu mọi người tin rằng người không làm tuyên bố nào cho bản thân mình là thánh nhân, chuyện thành dễ dàng cho một người muốn được gọi là thánh nhân. Anh ta chỉ phải không làm tuyên bố nào.

Phật và Lão Tử đã dùng thuật ngữ phủ định. Nhưng ngay khi điều đó được khám phá ra, cả ở Ấn Độ và Trung Quốc, rằng cách thức của bản ngã là rất kì lạ và bí hiểm. Bản ngã không gặp khó khăn nào theo cả hai cách. Nếu bạn tới tôi và nói, “Người này người nọ nói anh ta là Thượng đế” tôi có thể nói, “Thế thì anh ta không là thánh nhân, vì thánh nhân không tuyên bố bản thân mình. Bây giờ nhìn tôi đây. Tôi không làm tuyên bố nào.” Đây cũng là tuyên bố cho dù nó có tính phủ định.

Meher Baba nói ông ấy là avatar. Đây là tuyên bố khẳng định. Krishnamurti nói ông ấy không phải là Thượng đế. Đây là tuyên bố phủ định. Dù sao đi chăng nữa cả hai đều là các tuyên bố. Khó mà thoát được khỏi chúng. Bạn sẽ thoát khỏi chúng thế nào? Dù bạn làm cái gì đó hay bạn không làm, từng hành động của bạn đều là một phát biểu. Làm sao bạn có thể thoát được khỏi phát biểu của bạn? Khi tôi im lặng, thế nữa tôi đang làm ra phát biểu.

Một người bạn đưa Bernard Shaw đi xem kịch của ông ấy. Shaw không muốn đi, nhưng người bạn cứ nài nỉ cho nên ông ấy đi. Ông ấy ngủ suốt vở kịch. Người bạn rất bực mình. Khó khăn lắm anh ta mới thuyết phục được ông ấy tới và giờ ông ấy ngủ say. Khi vở kịch kết thúc Shaw nói, “Nó là vở kịch hay.”

Người bạn đáp, “Ông không có quyền đưa ra bất kì phát biểu nào về vở kịch. Ông đã ngủ suốt buổi.”

Shaw nói, “Việc ngủ của tôi là phát biểu của tôi. Tôi nói vở kịch là hay vì tôi ngủ ngon.”

Phật và Lão Tử đã làm nỗ lực rất có ý nghĩa nhưng đã không thành công, vì người có thể tạo ra công cụ lừa dối theo bất kì hướng nào. Những người tuyên bố bản thân họ là Thượng đế làm mọi người lầm đường lạc lối nhưng, sau Phật, các khất sĩ của ông ấy đã làm cùng điều, mặc cho việc không làm tuyên bố nào của ông ta. Lừa dối là có thể từ bất kì hướng nào; không có cách nào tránh nó.

Điều này ngụ ý rằng tuỳ thuộc vào khuynh hướng tự nhiên của từng người cách người đó đưa ra quan điểm của mình. Thiên hướng của Lão Tử và Phật là trong phủ định: không cái này, không cái này. Nếu họ phải nói cái gì đó, họ sẽ nói, “Nói chỉ cái không hiện hữu.” Nếu họ có thể làm điều đó, họ sẽ ưa thích nói qua im lặng của họ.

Cho nên điều đó tuỳ vào từng người. Meera không thể giữ tĩnh lặng mà Mansoor cũng không thể, và vậy mà họ đã là khác nhau trong cách riêng của họ. Chaitanya đã không thể giữ im lặng. Anh ấy phải hát và múa, và tuyên bố cho thế giới. Tuyên bố của anh ấy đã không được làm; nó đã xảy ra.

Chúng ta phải hiểu điều này cho đúng. Một người có thể ngồi im lặng. Khi hiểu biết bừng lên trên Phật, ông ấy đã im lặng trong tám ngày. Có một câu chuyện đáng yêu thường được kể về điều này. Chuyện kể rằng khi các thần thấy rằng Phật đã trở nên im lặng, họ đi và phủ phục bản thân họ dưới chân ông ấy và khẩn nài ông ấy đừng đi vào im lặng, vì, họ nói, trong hàng trăm thời đại chỉ một cá nhân đạt tới trạng thái tối cao này. Trong vô hạn việc sinh đã từng có những người đã chờ đợi việc đến của vị Phật. Nếu ông ấy định đi vào im lặng, ai sẽ làm dịu cơn khát của họ?

Ngay cả thế Phật đã không có tâm trí để nói vì ông ấy nói, “Ta không biết ta phải nói gì. Bất kì cái gì ta nói nhất định là giả. Lời là giả; im lặng là thực. Những người có thể hiểu im lặng sẽ hiểu.” Nhưng nếu mọi người có thể hiểu bằng một mình im lặng…. Trời im lặng, mặt trời, mặt trăng, sao, sông và núi, cây và hoa tất cả đều im lặng. Khắp xung quanh là cõi giới im lặng. Nhưng ai hiểu bởi im lặng? Cho nên im lặng của Phật sẽ diễn ra mà cũng không được để ý.

Các thần nói, “Xin ông nói. Không thành vấn đề nếu lời không truyền đạt, nếu mọi người không hiểu. Nếu một người trong cả trăm người nhận được thông điệp của ông, điều đó là đủ.”

Phật nói, “Có những người sẽ hiểu đúng lời ta, nhưng họ sẽ hiểu ta mà không có việc nói của ta. Có những người khác sẽ diễn giải sai lời ta; với họ không có lí do cho ta nói. Để ta vẫn còn im lặng đi.”

Nhưng các thần cũng có quan điểm đưa ra. “Ông là đúng,” họ nói, “nhưng có loại người thứ ba trên thế giới này nữa. Họ là những người đang ở giữa hai loại đầu. Nếu ông không nói, họ sẽ không bao giờ hiểu. Nếu ông nói, họ sẽ hiểu. Họ đang đứng trên bờ miệng. Một cú hích nhỏ và họ sẽ sẵn sàng nhảy. Xin nói vì họ.”

Bây giờ, chính điều tự nhiên duy nhất là xu hướng nói của người chủ trương im lặng sẽ là phủ định. Nếu bạn hỏi Thượng đế là gì ông ấy sẽ đáp, “Ngài không là cái này; Ngài không là cái kia.” Sự ưa thích của người chủ trương im lặng là mặt phủ định.

Hiểu biết của những người như Meera và Chaitanya trở thành việc biểu lộ; nó trở thành điệu múa. Không có một li khoảng cách nào giữa hiểu biết của họ và biểu lộ của họ. Họ nói nhiều, không chỉ bằng mồm của họ mà bằng toàn thân họ. Toàn thể nhân cách của họ trở thành đầy diễn đạt. Họ không bao giờ dừng lại một khoảnh khắc để suy tư rằng bất kì cái gì được diễn đạt đều trở thành giả, vì họ thậm chí đã không nhận biết về khi nào và làm sao việc biểu lộ bắt đầu.

Cho nên điều đó là tuỳ toàn bộ vào cá nhân. Ngôn ngữ của Meera và Chaitanya có tính khẳng định. Meera sẽ không bao giờ nói Thượng đế sẽ không là cái gì. Cô ấy sẽ nói Thượng đế là gì. Mọi người sùng kính đều dùng ngôn ngữ khẳng định; Thượng đế là gì. Do đó, Thượng đế của người sùng kính vẫn còn là Thượng đế mang hình thể. Người sùng kính không thể chấp nhận được khía cạnh vô hình thể của Thượng đế. Khẳng định ngụ ý khía cạnh hình thể, thuộc tính.

Tất cả người trí thức đều dùng ngôn ngữ phủ định. Do đó Thượng đế của họ sẽ là hư không – vô hình thể, vô thuộc tính. Họ sẽ nói, “Không cái này; không cái này”; trong khi người sùng kính bhaktas nói, “Ngài là cái này; Ngài là cái này.” Cả hai là đúng và cả hai là sai, vì cả hai là không đầy đủ.

Diễn đạt không bao giờ có thể là hoàn hảo. Mọi biểu lộ nhất định là không đầy đủ. Lời có thể diễn đạt chỉ một nửa kinh nghiệm. Nửa kia nhất định bị bỏ ra vì các lời mâu thuẫn không tạo ra nghĩa.

Nỗ lực đã được làm theo hướng này nữa. Upanishads đã nói, “Ngài là xa hơn cái xa nhất, và là gần hơn cái gần nhất.” Có trường phái tư tưởng mới ở phương Tây, quan niệm thông thiên học mới, có tên là Phân tích Khẳng định. Những người này sẽ gọi phát biểu trên của Upanishads là vô nghĩa. Họ sẽ tranh biện rằng khi bạn nói xa hơn cái xa nhất, bạn không thể nói gần hơn cái gần nhất trong liền một hơi; vì cả hai phát biểu này triệt tiêu lẫn nhau. Các nhà tư tưởng này của phương Tây cũng sẽ coi giáo huấn của Lão Tử là ngớ ngẩn.

Lão Tử nói, “Vô hình thể là hình thể của Ngài.” Điều này không có nghĩa với họ, vì hình thể ngụ ý hình thể với họ, và vô hình thể là vô hình thể. Theo họ, điều đó giống như nói, “Chết là sống,” hay, “Cái xấu của Ngài là cái đẹp của ngài,” hay “Cái nhìn của ngài là cái mù của ngài.” Họ sẽ khẩn nài Lão Tử đừng dùng những phát biểu như vậy vì mù là mù và có cái nhìn là thấy. Nếu bạn dùng sự mù để ngụ ý mắt, và mắt để ngụ ý mù, sẽ có lẫn lộn quá nhiều. Một trong những thành viên nổi tiếng của trường phái tư tưởng này, Ludwig Wittgenstein đã nói, “Cái mà không thể được nói phải không được nói. Đừng nói cái gây rối và làm lẫn lộn ngôn ngữ.”

Cho nên có ba cách để mở cho chúng ta. Một cách là dùng ngôn ngữ khẳng định. Ngôn ngữ khẳng định có thiếu sót riêng của nó. Nó hình thành các biên giới, định nghĩa, và làm hẹp lại sự tồn tại bao la. Cách thứ hai là dùng ngôn ngữ của phủ định. Không biên giới nào được hình thành, không hình thể nào lấy hình dạng và sự tồn tại bao la vẫn còn không bị giới hạn. Nhưng thế thì sự tồn tại đi ra ngoài việc hiểu; nó trở thành huyền. Cách thứ ba là dùng cả khẳng định và phủ định cùng nhau. Thế thì bạn có thể nói, “Ngài hiện hữu và vậy mà Ngài không hiện hữu. Ngài là lớn và Ngài cũng là nhỏ.” Dùng chúng cả hai cùng nhau.

Nhưng thế thì ngôn ngữ trở thành khó hiểu. Không cái gì sẽ được diễn đạt. Thế thì cái gì cần được làm? Có cách thứ tư. Vẫn còn im lặng. Nhưng điều này không giải quyết được vấn đề. Cho nên ngôn ngữ là điều xấu cần thiết; và chúng ta phải chọn. Chọn lựa của từng người là ưa thích cá nhân của người đó. Jesus và Mansoor ưa thích ngôn ngữ khẳng định. Lão Tử ưa thích ngôn ngữ phủ định. Không ai có thể nói ai là đúng và ai là sai. Với Jesus, xu hướng suy nghĩ riêng của ông ấy là đúng; với Lão Tử ý kiến riêng của ông ấy là đúng. Xu hướng suy nghĩ của họ tuỳ thuộc vào cách nghĩ riêng của họ.

Phiền phức của chúng ta là ở chỗ chúng ta bao giờ cũng cố tìm những điểm tương tự giữa các lời của họ trước khi chúng ta sẵn lòng chấp nhận họ là đúng. Chúng ta không thể chấp nhận tất cả chúng như là đích thực đồng thời. Lão Tử không đúng mà Phật hay Jesus hay Krishna cũng không đúng. Tất cả họ không thể là đúng.

Tôi nói với bạn, cứ để tranh cãi này như nó vậy đi. Lấy bất kì cái gì hấp dẫn bạn từ tất cả những người này và đi theo nó. Đừng lo nghĩ về mọi người. Ngày bạn đạt tới đích bạn sẽ thấy rằng chúng tất cả đều đúng. Cho tới thời gian như vậy khi bạn đạt tới đích, chọn bất kì cái gì phù hợp với nhân cách của bạn từ tất cả, hay bất kì cái gì, và tiến lên.

Đồng thời, không bao giờ phạm sai lầm nghĩ rằng cái là đúng cho bạn là đúng cho mọi người. Không cố thuyết phục bạn của bạn về cách nghĩ của bạn, vì điều hoàn toàn có thể là nó có thể không phù hợp với nhân cách của người đó và bạn có thể trở nên chịu trách nhiệm cho cái chết của người đó. Tất cả chúng ta đều chịu trách nhiệm cho việc phá huỷ lẫn nhau. Người này múa và hát; người khác nói, “Anh ngu làm sao mà mê đắm thế! Dùng phán đoán đúng của anh đi!” Thực tại điều người đó ngụ ý là ở chỗ nếu bản thân người đó múa, điều đó chắc sẽ là vô nghĩa; nó chắc sẽ dường như ngu. Nhưng anh ta đang vượt qua những giới hạn của mình và áp đặt ý chí của anh ta lên người khác bằng việc lên án người kia. Anh ta làm bản thân anh ta thành tiêu chí cho người khác.

Không người nào là tiêu chí cho bất kì người nào khác trên thế giới này. Người nghĩ mình là tiêu chí là đang phạm phải bạo hành nghiêm trọng; người đó là tội phạm. Rất có thể là điều dường như ngu xuẩn với tôi có thể cho niềm vui mênh mông với người khác, và điều dường như là hiểu biết tối thượng với tôi có thể dường như ngu xuẩn với người khác. Người khác không mảy may quan trọng gì trong chuyện này; cái ngã riêng của tôi là điều thành vấn đề. Tôi phải tìm ra cách đưa tôi tới phúc lạc, không thành vấn đề nó dường như ngu xuẩn thế nào với phần còn lại của thế giới. Do đó Krishna đã nói, “Bản tính riêng của người ta là tốt nhất. Người ta phải bỏ người khác để theo bản tính riêng của mình.”

Nhưng chúng ta mãi mãi áp đặt tôn giáo của chúng ta lên người khác. Những người ưa thích ngôn ngữ của phủ định sẽ thấy Lão Tử là thú vị và sẽ hiểu ông ấy. Những người ưa thích ngôn ngữ khẳng định sẽ không hiểu Lão Tử. Không có nhu cầu hiểu. Bạn bắt đầu từ đâu là không quan trọng. Điều là quan trọng là sự kiện rằng bạn chung cuộc đạt tới đích đến mà cả Jesus và Lão Tử đã nói tới. Ngày bạn đạt tới, bạn sẽ thấy rằng mọi con đường đều hợp tụ vào cùng một điểm. Cho tới lúc đó, bạn phải chọn một con đường cho bản thân bạn.

Có nguy hiểm khác. Có một số người cực khôn. Họ nói rằng cả khẳng định và phủ định đều đúng. Nhưng những người như vậy không tạo ra tiến bộ, vì không ai có thể bước trên hai con đường cùng lúc. Bạn phải bước trên chỉ một con đường. Trong thời đại này, số những người khôn như vậy đang tăng lên nhanh chóng. Họ nói rằng Ki tô giáo là được, Hindu giáo là được, cũng thế với Hồi giáo vân vân. Họ nói, “Allah và Ishwara chỉ là những cái tên của Ngài.” Những người này không tiến tới mục đích của họ. Nếu mọi con đường đều dẫn tới cùng đích đến, khó mà chọn một con đường. Người tìm kiến khởi hành trên một con đường. Ngay khi anh ta đi xa hơn một chút, anh ta lại muốn thử con đường khác. Thế rồi con đường thứ ba, thế rồi con đường thứ tư. Kết quả là ở chỗ anh ta vẫn còn ở chỗ anh ta đang ở. Với người muốn bắt đầu cuộc hành trình của mình, một con đường là câu trả lời. Với người đơn thuần mê đắm trong nhào lộn tâm trí, mọi con đường là đúng.

Với người tìm kiếm, bao giờ cũng có một con đường. Với người đã đạt tới, mọi con đường là đúng. Nhưng chừng nào bạn còn chưa đạt tới, đừng nói ngôn ngữ của những người đã đạt tới. Đứng ở cổng, nếu bạn cảm thấy bạn quen thuộc với bên trong của cung điện, bạn là người không may mắn. Bạn vẫn ở bên ngoài cung điện; bạn vẫn phải đi vào bên trong. Tương tự, với người vẫn ở ngoại vi mà nói rằng mọi con đường đều dẫn tới cùng đích là giống như cắt chân riêng của mình. Người nói ngôn ngữ vay mượn từ những người đã đạt tới, trong khi bản thân người đó còn khó bắt đầu cuộc hành trình của mình, người đó sẽ không có khả năng làm bất kì tiến bộ nào.

Với lí do này, từng tôn giáo lên án tôn giáo khác. Mọi tôn giáo đã làm điều này. Tuyên bố của họ là rất ghê gớm, và rất nguy hiểm. Mọi thứ có giá trị là nguy hiểm. Chính chỉ những thứ rẻ mới không chứa nguy hiểm. Chân lí càng có ý nghĩa, nó càng nguy hiểm. Hơi chút sai lầm và nó trở thành nguy hiểm. Từng tôn giáo đã nói, “Một mình tôn giáo này là tôn giáo đúng.” Đây là phát biểu nguy hiểm; đồng thời, là một phát biểu rất quyền lực. Nó là nguy hiểm nếu bạn hiểu nó ngụ ý rằng ‘không ai là đúng ngoại trừ tôi.’ Điều này là nguy hiểm. Nghĩa là khác hoàn toàn. Nó ngụ ý rằng với người tìm kiếm một con đường là đủ, vì chỉ thế thì người đó mới tiến bộ. Không một tôn giáo nào đã lo nghĩ về việc tuyên bố chân lí tối thượng vì họ biết rằng khi một người đạt tới, người đó sẽ đi tới biết bản thân mình.

Nhưng tất cả chúng ta có tâm trí không phát triển đầy đủ. Chúng ta khó bắt đầu một thứ trước khi tâm trí được chất đầy với cả nghìn các phát biểu liên quan tới nó. Chúng ta khó mà lấy một bước và chúng ta bắt nói về đích đến.

Lão Tử là đúng. Mansoor cũng vậy. Nhưng điều này bạn sẽ chỉ biết khi bạn cũng đạt tới cùng chỗ. Cho nên đừng vội vàng. Bất kì con đường nào phù hợp, coi cái đó là con đường. Cái gì dường như sai, coi những con đường đó là tuyệt đối vô giá trị. Điều này không ngụ ý rằng bạn làm chọn lựa của bạn và thế rồi chỉ ngồi đó không làm gì. Điều đó không có nghĩa. Chọn một con đường mà dường như là con đường đúng cho bạn chỉ có nghĩa nếu bạn dự định bắt đầu đi trên nó.

Mọi người nghĩ rằng các hiểu lầm giữa người Hindu, người Sikh, người Ki tô giáo, người Hồi giáo, Phật tử và người Jaina đang ít dần; thế giới đang cải thiện. Điều này không phải là hoàn cảnh. Sự kiện là, bây giờ không ai hăm hở đi theo bất kì tôn giáo nào. Thế thì cần gì mà cãi nhau? Không phải là mọi người đã trở nên tốt bụng hơn và tin vào sống và cho phép sống. Thay vì thế, tôn giáo đã mất tầm quan trọng của nó trong cuộc sống của mọi người và do vậy nó có thể được bỏ qua một cách thuận tiện. Nếu một người nói hôm nay “Không có Thượng đế,” không ai sẽ thách thức người đó. Không ai bận tâm. Không phải bởi vì mọi người là khoan dung thế nhưng bởi vì sự hờ hững chung và thiếu quan tâm. Nếu người ta tuyên bố rằng Gita và Koran truyền đạt cùng thông điệp, chúng ta chấp nhận điều đó: có lẽ nó là vậy. Điều này không phải là vì chúng ta đã nghiên cứu Gita hay Koran nhưng vì chúng ta không muốn phí thời gian vào những thảo luận vô ích.

Một người bạn đã gửi cho tôi một cuốn sách anh ta đã viết để chứng minh rằng Kinh Thánh và Gita cho cùng thông điệp. Anh ta đã bỏ nhiều công sức vào cả hai cuốn sách này. Tôi đã đọc toàn thể cuốn sách của anh ta và thấy rằng nỗ lực của anh ta là không có giá trị gì. Không có tương tự ở bất kì chỗ nào. Không một phát biểu nào từ cuốn này có thể được tìm thấy trong cuốn kia. Và vậy mà, từ Radhakrishnan tới Vinoba, mọi người đã chấp thuận và tán dương công trình của anh ta. Điều này đã cho tôi cảm giác rằng không ai trong số họ đã đọc cuốn sách. Có lẽ họ nghĩ đó đã là nỗ lực đáng tán dương điều nên được khuyến khích. Cả hai phát biểu khẳng định và phủ định là đúng – nhưng chỉ dành cho những người đã đạt tới, không dành cho bạn. Tôi nói về Krishna. Nếu bạn thích ngôn ngữ khẳng định, bạn có thể theo Krishna. Tôi nói về Lão Tử, vì không ai khác đã cho việc tái tạo phủ định hay thế. Lão Tử là tột bậc trên con đường của phủ định. Những người bị hút về con đường của phủ định có thể đi theo Lão Tử.

Đừng lo nghĩ về cái gì là đúng. Điều quan trọng là cái bạn cảm thấy là đúng cho bạn. Đó là vấn đề cơ bản, có giá trị nhất.

 

Từ “Con đường Đạo”, T.4, Ch.14, Chờ đợi vô tư, chết của tự cao và cái một trong cái nhiều

Để lại một bình luận