Im lặng ẩn trong lời

Về sự tồn tại Lão Tử nói: “Lấy cái có để làm cái lợi, lấy cái không đó để làm cái dụng.” Khi mọi thứ hiện diện, chúng có ưu thế riêng của chúng; nhưng sự vô hiện diện của chúng có thể có hữu dụng sâu lắng nữa.

Chẳng hạn, tuổi trẻ có cái dụng của nó; nhưng khi tuổi trẻ qua đi, điều đó nữa cũng có cái dụng của nó. Sự suy giảm của tuổi trẻ là việc phát triển sâu lắng trong bản thân nó. Điều này chúng ta hiếm khi nhận ra, vì phần lớn chúng ta già đi chỉ trong thân thể. Ý thức của chúng ta không bao giờ trưởng thành. Việc hiểu của chúng ta vẫn còn ở mức thơ ấu.

Có một sự kiện rất thú vị: khi người già mơ, người đó bao giờ cũng mơ về bản thân mình như thanh niên và không bao giờ như ông già. Sự kiện này đã được khám phá bởi việc phân tích hàng nghìn giấc mơ. Điều này chỉ ngụ ý một điều: người đó vẫn coi bản thân mình là trẻ. Thân thể không hợp tác, thân thể già và yếu nhưng tâm trí bên trong từ chối trở nên già. Tâm trí bên trong làm lộ bản thân nó trong mơ.

Nếu một người chỉ coi tuổi trẻ là phần hữu dụng của cuộc sống và sau đó không thấy hữu dụng gì, người đó sẽ không nhận biết về giá trị của phủ định, tuổi già sẽ xuất hiện đẹp hơn tuổi trẻ. Có xúc động và kích động trong cái đẹp của tuổi trẻ, nhưng không có chiều sâu. Có mau lẹ, có tốc độ, nhưng không có chiều sâu. Cái đẹp của tuổi trẻ là nông, bề mặt. Khi tuổi trẻ mất đi, và khi ai đó hiểu cái hữu dụng của mất mát này, tuổi già của người đó thu được cái đẹp mà tuổi trẻ không bao giờ có thể ganh đua được.

Và điều này là đúng, vì tuổi già tới sau tuổi trẻ. Tuổi già là sự phát triển thêm của cuộc sống, cho nên nó có chân giá trị, chiều sâu – chiều sâu vô hạn. Đây là kết quả của việc tiến hoá của tuổi trẻ vào tuổi già. Đó là kết quả tự nhiên của việc thiếu vắng tuổi trẻ.

Sống là huyền nhưng người nhìn thấy một mình huyền của sống và không biết gì về huyền của chết thì không hiểu huyền đầy đủ. Không có gì trong sự tồn tại tương đương với chết. Chết là vắng bóng, vô tồn tại.

Lão Tử nói rằng sự tồn tại dương có cái dụng của nó, nhưng sự tồn tại âm là khác biệt – nó là hữu dụng tối cao. Nó có nghĩa khác toàn bộ. Nhưng chúng ta thấy nghĩa chỉ trong sống. Chúng ta không thấy nghĩa trong chết. Chết với chúng ta là kết thúc – nơi sống kết thúc với chúng ta. Chúng ta không nhìn nó như sự bắt đầu, việc mở ra mới. Nó không phải là lối vào viễn cảnh mới, nhưng là việc đóng bất thần những cánh cửa cũ.

Chúng ta không có hiểu biết về chết. Điều này là vì chúng ta bị buộc vào dương. Dương gây phiền phức cho chúng ta, và chúng ta không có hiểu biết về âm. Nếu chúng ta hiểu khía cạnh âm, chúng ta sẽ hiểu cái vô tồn tại.

Chúng ta thường đếm những giờ thức của mình và cố dùng tạm thời ít giấc ngủ nhất có thể được. Ở phương Tây, các nhà khoa học đang cố tìm ra cách thức và phương tiện qua đó chúng ta có thể khử bỏ giấc ngủ. Nếu chúng ta không ngủ, chúng ta có được thời kì bổ sung quãng hai mươi năm cho một cuộc đời hoạt động. Nếu một người sống sáu mươi năm, hai mươi năm bị mất vào việc ngủ. Bây giờ, thay vì kéo dài cuộc sống thêm hai mươi năm, chẳng sẽ tốt hơn là lấy lại hai mươi năm ngủ và sống chúng sao? Thế thì người ta sẽ có khả năng sống sáu mươi năm đầy đủ của đời mình. Cho nên các nhà khoa học đang làm việc hướng tới cuộc sống không có ngủ. Họ không biết rằng họ sẽ áp đặt dương lên cái cực đoan hoàn toàn của nó.

Người quên ngủ – giờ thức của người đó sẽ bị chất đầy bởi chán ngán và trở thành vô nghĩa. Bạn có để ý rằng khi bạn chuẩn bị đi ngủ ban đêm, ánh sáng trong mắt bạn gần như dịu đi? Khi bạn thức dậy buổi sáng, chúng lại tươi tắn và loé sáng. Đêm không trôi qua vô tích sự. Đêm là phương tiện thu lại sức mạnh qua vô tồn tại. Ngủ ngụ ý được nhận chìm trong cái âm, cái rỗng, để cho cái rỗng làm tươi tắn lại chúng ta.

Đây là lí do tại sao các bác sĩ trị liệu nói rằng người ta không thể phục hồi được từ ốm bệnh nếu người đó không có được số giờ ngủ được yêu cầu. Nếu một người mất mọi khả năng thu lại sức mạnh từ bên trong, không lượng thuốc nào có thể chữa được bệnh của người đó. Các bác sĩ trị liệu bây giờ thừa nhận rằng nhiều nhất chúng ta chỉ có thể giúp cho một người thu được sức khoẻ. Thực tại, đó là bản thân người bệnh chịu trách nhiệm cơ bản để chữa cho bản thân người đó. Nhưng điều này chỉ là có thể khi người đó từ bỏ mọi khía cạnh dương của cuộc sống và làm mất bản thân mình trong tối của đêm hoàn toàn.

Ngay khi chúng ta đánh mất bản thân mình trong cái rỗng, chúng ta đạt tới các mức sâu hơn của sự sống, cái là sự hỗ trợ và gốc rễ nguyên thuỷ của sự sống. Từ đó, chúng ta hấp thụ năng lượng tươi của sự sống. Chính năng lượng này chiếu ra trong mắt chúng ta vào buổi sáng và trở thành tiếng hót hạnh phúc của chim. Chính cùng năng lượng này làm cho hoa mở ra vào buổi sáng. Mọi thứ ngủ ban đêm, cây, chim, con vật và cả người.

Nhưng muộn về đêm, phần lớn đàn ông thấy khó ngủ. Dần dần, dường như là mọi người sẽ không có khả năng ngủ. Đó sẽ là kết thúc của sự lành mạnh cho người. Chúng ta không bao giờ hi vọng là khoẻ và lành mạnh lần nữa nếu chúng ta bỏ qua và gạt bỏ khía cạnh âm của sự sống.

Lão Tử nói: “Ngủ là thứ nhất; thức là thứ hai.” Cái âm, cái thảnh thơi là thứ nhất; lao động theo sau. Thảnh thơi càng lớn, năng lượng cho làm việc sẽ càng lớn. Khía cạnh âm này, vô tồn tại này, sẽ phải được hiểu thấu đáo. Chúng ta có thể hiểu nó theo những cách đa dạng.

Như tôi đã nói, ngủ là vô tồn tại và thức là dương. Ngủ là âm. Chúng ta hoạt động trong thời kì thức và bất hoạt (im lặng) trong ngủ của chúng ta. Người mơ cả đêm cảm thấy người đó đã không ngủ chút nào, vì việc mơ là trạng thái trung gian giữa thức và ngủ. Tâm trí đung đưa giữa hai trạng thái này và vẫn còn hoạt động. Đó là lí do tại sao mọi lúc mọi người thấy bản thân họ mệt mỏi thế khi họ thức dậy buổi sáng. Họ còn mệt hơn lúc cuối ngày.

Một dân làng có lần đi tới thăm bạn mình sống trong thành phố của đất nước. Khi anh ta trở về làng mình, các bạn anh ta hỏi anh ta thấy khác biệt gì giữa cuộc sống trong làng và cuộc sống ở thành thị. Anh ta nói, “Có khác biệt dứt khoát. Ở làng mọi người đi ngủ hoàn toàn mệt mỏi với công việc quần quật cả ngày, và họ dậy buổi sáng hoàn toàn được làm tươi tắn. Người ở thành thị dường như tươi tắn vào buổi tối và có vẻ mệt vào buổi sáng. Thị trấn hoạt động mạnh với sức sống và thức buổi tối – câu lạc bộ, khách sạn và rạp chiếu phim ồn ào hoạt động. Buổi sáng bạn thấy những người này gần như chết. Họ khó khăn lắm mới dậy và kéo lê bản thân họ đi làm, vì công việc họ phải đi làm. Không có sự sống trong họ; họ có vẻ giống như các sinh linh không sức sống, không xương sống di chuyển qua lại.”

Tính âm của giấc ngủ bị mất. Từ sáng tới đêm chúng ta nói, và thế rồi trong mơ chúng ta cũng nói. Chúng ta thấy mọi người nói trong giấc ngủ! Suốt hai mươi bốn giờ chúng ta cứ lảm nhảm. Im lặng là vô tồn tại; lời là tồn tại. Lời là dương; im lặng là âm. Nhưng với người bị mất hút trong mơ và người chưa bao giờ trải nghiệm im lặng bên trong, người không có hiểu biết về im lặng bên trong là bất kì cái gì, người bị chất đầy với lời, lời và lời suốt – người đó vẫn còn bị tước đi những chiều sâu lắng của sự sống. Lời là hữu dụng, nhưng chúng không phải là đầu cuối trong bản thân chúng. Lời là cần thiết, nhưng chúng không đủ trong bản thân chúng. Lời được cần nhưng nhiều hơn lời, “vô lời” được cần. Nhiều hơn lời, im lặng được cần.

Nhớ, những lời đó mang bản chất và trọng lượng, những người có lời được chất đầy bởi hơi thở của sự sống, là những người có năng lực im lặng. Mọi chân lí vĩ đại đã từng được đề xuất trên thế gian này đều đã được thốt ra bởi người biết tới nghệ thuật về im lặng. Khi một Phật nói, từng lời đều có sức lôi cuốn của riêng nó. Khi một Mahavira nói, mọi lời của ông ấy được đóng gói bằng im lặng mãnh liệt. Khi một Jesus nói, ông ấy có ba mươi năm im lặng đằng sau ông ấy. Không ai biết Jesus đã ở đâu và ông ấy đã làm gì trong ba mươi năm này.

Mahavira đứng im lặng trong rừng rậm trong mười hai năm trường không thốt ra một lời. Thế rồi khi ông ấy nói, lời của ông ấy có phẩm chất khác hoàn toàn. Thế thì lời của ông ấy có quyền năng khác, sức mạnh khác ở bên ngoài người thường. Từng lời ông ấy thốt ra đã trở thành sâu lắng với sức mạnh của im lặng. Từng lời đã được sinh ra từ im lặng của ông ấy đều có trọng lượng phân biệt, giá trị phân biệt của riêng nó.

Bạn có thể nói cùng những lời đó. Không có khó khăn trong việc đó, vì Mahavira không tạo ra lời mới. Phật, Christ và Krishna đã nói ngôn ngữ chung của mọi người. Bất kì cái gì Krishna đã nói trong Gita đã được hiểu rõ bởi Arjuna. Không chỗ nào mà Arjuna nói rằng anh ta đã không thể hiểu được điều Krishna đã nói, vì Krishna đã nói ngôn ngữ mà Arjuna biết rõ. Và vậy mà khi Krishna nói, lời lấy phẩm chất đặc biệt, trọng lượng và giá trị nào đó mà chắc đã không cùng có nếu như Arjuna đã nói chính những lời đó.

Cho nên một nghĩa của lời là ở chỗ nó được cho trong từ điển, và nghĩa khác của lời là ở chỗ nó xuyên thấu và trong chúng từ im lặng bên trong. Vậy đó là điều thường xảy ra khi một người như Krishna nói, bất kì cái gì ông ấy nói đều trở thành thơ ca; trong khi người khác có thể làm thơ và vậy mà việc dịch của người đó sẽ là nhạt nhẽo, tẻ nhạt. Ở một số người, lời dường như chết ngay khi chúng đi qua môi; trong khi ở những người khác, từng lời trở thành giọt cam lồ ngay khi nó đi tới môi vì chúng đã thực sự khởi hành cuộc hành trình tới rỗng bao la. Lời của họ là những lời có im lặng toàn bộ đằng sau chúng. Lời được hình thành và nuôi dưỡng bên trong bụng mẹ của im lặng được chất đầy bằng năng lượng của sự sống.

Nếu chúng ta hiểu điều đó theo cách này, sẽ dễ theo hơn. Nếu đứa trẻ được thụ thai trong bụng người mẹ và nó đi ra mà không trải qua chín tháng im lặng bên trong cô ấy, điều đó trở thành sẩy thai và không phải là việc sinh. Đó là việc xảy ra chết. Nhưng khi đứa trẻ trải qua chín tháng của im lặng, chín tháng của tối và âm, nó đạt tới sự sống. Theo đích xác cùng cách này, khi có im lặng của bụng mẹ bên trong một người, thế thì lời được sinh ra và được nuôi dưỡng bên trong im lặng này trở nên được chất đầy với hơi thở của sự sống.

Mọi lời chúng ta nói đều giống như sẩy thai. Chúng ta đọc báo và chạy đi lan truyền tin tức cho người khác. Bạn đọc một cuốn sách và nóng lòng chờ đợi con trai bạn trở về từ trường để cho bạn có thể đọc giảng cho nó. Đây là việc sẩy thai thuần. Những lời này không được cho phép nuôi dưỡng trong im lặng. Tất cả chúng ta đều bị sẩy thai trong tâm trí. Ngay khi chúng ta nghe thấy cái gì đó là chúng ta quăng nó vào người khác. Người khác cũng làm cùng điều này – tất cả chúng ta đều quăng lời vào lẫn nhau.

Bất kì khi nào bất kì người nào tới gần thiền sư Mục Châu, điều đầu tiên ông ấy nói với người này là, “Nếu ông muốn học lời, đi chỗ khác đi; nếu ông muốn học im lặng, ông có thể ở lại. Chúng ta dùng lời ở đây, nhưng chỉ đủ để trỏ tới im lặng.”

Im lặng là vô tồn tại và lời là tồn tại. Mọi thứ là không thấy được, theo mọi khía cạnh của sự sống, là sâu lắng. Cái ở bên ngoài việc nhớ và tri thức của chúng ta, cái mà không thể được bắt lấy bằng trải nghiệm, một mình cái đó là vô giá. Người ít lo nghĩ về các khía cạnh dương của sự sống và về những thứ ở bên trong tầm với của các giác quan, và người chăm nom nhiều hơn tới rỗng vô tồn tại, im lặng âm, khởi hành cuộc hành trình vì chân lí tối cao của sự sống. Lão Tử nói: “Bao giờ cũng tìm chiều sâu; không bị vướng mắc ở bề mặt. Bao giờ cũng tìm cái đối lập.” Đó là rễ nền tảng của mọi thứ vì chính là qua một mình điều này mà cái đẹp, cái tinh tuý, cái mãnh liệt và sức mạnh của sự sống được đạt tới.

Mọi nơi cái đối lập hiện diện mãi mãi trong chiều sâu của sự sống. Nếu chúng ta nhớ trong tâm trí về chiều sâu này, toàn thể cái nhìn sự sống của chúng ta trở thành khác toàn bộ. Người có thể thấy ghét trong yêu, được tự do với cả hai. Thế thì kiểu yêu duy nhất được sinh ra, yêu mà là không quen thuộc và không được biết toàn bộ với chúng ta.

Yêu này không phải là quan hệ nhưng là trạng thái hiện hữu. Chính yêu này làm cho Christ nói “Yêu là Thượng đế.” Chính yêu này mà Mahavira đã định nghĩa là ahimsa (bất bạo hành) và Phật đã định nghĩa là từ bi. Lão Tử đã không cho cái tên nào cho yêu này vì ông ấy nói mọi cái tên đều bị làm nhơ bẩn. Nếu như ông ấy nói yêu, mọi người chắc đã nhận nó theo nghĩa bình thường của nó: cách họ yêu. Nếu như ông ấy nói từ bi, họ chắc đã nhận nó là kiểu từ bi của họ. Bất kì cái gì ông ấy nói, mọi người chắc sẽ định nghĩa nó như nó phù hợp với họ. Lời đã được dùng nhiều bởi bản thân những người ốm trong tâm trí tới mức chúng đã trở thành hung hăng. Lời đã trở nên bị ô nhiễm với ốm bệnh của người. Không lời nào đã thoát khỏi virus này. Do đó Lão Tử ưa thích không cho tên. Ông ấy nói, “Ta không cho lời. Ta chỉ nói, nơi cả hai vô hiện hữu, và vậy mà cái gì đó còn lại, cái đó là nó. Một mình cái đó là đáng đạt tới.”

Để tôi gợi ý thêm một điều nữa trước khi chúng ta kết thúc. Nếu chúng ta cân nhắc về lời và im lặng, chúng ta thường xuyên thấy im lặng ẩn sau lời. Nhưng im lặng này được nối với lời. Còn có im lặng khác – im lặng lớn lao – nơi không có cả lời lẫn im lặng. Tuy nhiên khó mà đặt tên cho nó.

Sự tồn tại bị phân chia bởi luật về các cái đối lập, và nó làm việc tương ứng theo. Nhưng chiều sâu của sự tồn tại không bị phân chia nơi cả hai cái đối lập bị mất đi. Thế thì khó mà nói rằng một còn lại. Ngôn ngữ của chúng ta là tới mức ngay khi chúng ta nói “một”, nó cho ý tưởng về hai ngay lập tức. Đôi khi ngồi yên tĩnh và thử nghĩ về “một” mà không nghĩ về “hai” và bạn sẽ biết điều tôi ngụ ý. Thượng đế là một, nhưng khi chúng ta nói “một”, chúng ta tự động nhớ tới “hai”. “Một” của chúng ta là một phần của chuỗi các con số. “Một” của chúng ta, do đó, không có nghĩa. Đây là lí do tại sao người Hindu đã không nói rằng Thượng đế là một. Họ đã nói, “Ngài là không thể phân chia.” Họ đã làm ra cách dùng phủ định. Họ không nói, “Ngài là một”; họ nói, “Ngài là bất nhị.” Họ có thể dễ dàng đưa ra phát biểu đơn giản thẳng thừng, nhưng họ biết rằng “một” cho nảy sinh ra “hai.” Cho nên họ đã phát biểu rất thông minh rằng Ngài là bất nhị, không hai. Khi nói điều này, họ đã chỉ dẫn rằng Ngài là một, nhưng họ đã không dùng lời này một cách trực tiếp. Điều đủ là ý tưởng về tính một của Ngài được việc hiểu của chúng ta nhìn thấy mà không dùng trực tiếp lời này.

Cho nên, người hiểu và biết luật của các cái đối lập, sẽ sớm thấy bản thân mình ở ngoài nó. Sự tồn tại bao gồm các cái đối lập, nhưng chúng ta chỉ thấy một phía của các cái đối lập.

Cho nên, có ba điều cần được lưu ý. Một là ở chỗ chúng ta chỉ thấy một phía của các cái đối lập và không thấy phía kia. Điều thứ hai là thấy cặp các cái đối lập trong tính toàn bộ của chúng. Khi chúng ta thấy chúng trong tính toàn bộ của chúng, điều thứ ba sẽ trở thành rõ ràng với chúng ta, điều ở bên ngoài cặp các cái đối lập. Nơi chúng ta đứng, chúng ta chỉ thấy yêu; chúng ta không thể thấy ghét. Nếu chúng ta thấy ghét, chúng ta không thấy yêu. Nếu chúng ta thấy cả hai, chúng ta sẽ có khả năng thấy điều thứ ba, mà không là hai điều này, và là cái ở bên ngoài chúng.

Thực tại không phân chia này chỉ được đạt tới khi chúng ta có năng lực hiểu tính hữu dụng đầy đủ của luật các cái đối lập. Và điều này chỉ có thể được hiểu, Lão Tử nói, khi bạn tìm kiếm cái âm trong cái dương. Lúc tìm điều này, bạn sẽ thấy rằng cái dương dừng lại toàn bộ trên cái âm. Và khi cái dương và cái âm cả hai bị mất đi, thế thì điều đó được đạt tới, mà sau việc đạt tới, không có gì nhiều hơn để được đạt tới.

Từ “Con đường Đạo”, T.3, Ch.5 Vô tồn tại và trống rỗng là hỗ trợ của mọi thứ

Để lại một bình luận