Kẽ hở thế hệ

Osho kính yêu,

Mọi kiếp sống của tôi, tôi đã trải nghiệm nhiều tình huống trong đó tôi đã cảm thấy bị cầm tù, bị giam hãm. Ngay khi tôi có thể hình dung ra, tôi đã thoát ra – như đứa trẻ, không xa xôi, nhưng sau tuổi mười bốn là xa xôi như có thể. Ngay cả sống trong sự hiện diện của thầy thói quen này đôi khi vẫn có đó, nhưng nó nhạt nhoà hoàn toàn ngay khi tôi nhìn vào trong mắt thầy – thế thì có việc nhẹ nhõm vô cùng làm sao. Cái gì đang xảy ra vậy, Osho ơi?

 

Mọi người đang thoát khỏi mọi chỗ, khỏi mọi người, khỏi mọi vật, vì họ có cảm giác tức khắc, trực giác rằng đây không phải là chỗ họ thuộc về – đó là chỗ nào đó khác. Đây không phải là những người họ thuộc về. Phải có người nào đó ở đâu đó mà họ thuộc về. Một số trẻ con có thể có nhận biết rất chính xác về cảm giác này.

Và khi bạn nhìn vào mắt tôi, cảm giác này biến mất vì bạn cần loại mắt đó; bạn đã từng tìm chúng mà không biết điều đó. Việc trốn thoát của bạn đã là việc tìm kiếm.

Từ `trốn thoát-escape’ có tính kết án. Bạn đã từng tìm kiếm, và vì bạn đã không tìm thấy ở chỗ này, bạn đã xô sang chỗ khác; không tìm thấy trong người này, bạn đã xô sang người khác. Và điều này đang xảy ra trên khắp thế giới: mọi người đang đổi chỗ, đổi người yêu của họ, đổi bạn bè của họ, đổi việc của họ, nhưng bằng cách nào đó, không cái gì dường như khớp. Khao khát bên trong của họ vẫn còn như cũ. Không chỉ còn như cũ, nó liên tục tăng lên khi họ trưởng thành.

Nếu điều đó xảy ra khi nhìn vào mắt tôi rằng ham muốn của bạn để trốn thoát biến mất, điều đó có nghĩa là bạn đã tìm thấy chìa khoá. Bạn cần sự hiện diện như vậy, bạn cần người như vậy, bạn cần đôi mắt như vậy quanh bạn. bản thân bạn cần đôi mắt như vậy, với cùng chiều sâu, với cùng sự rõ ràng, với cùng sáng suốt – và bạn sẽ thấy bản thân bạn ở nhà.

Và không ai thoát khỏi nhà. Mọi người thoát đi vì nhà, vì mọi người đã đặt chỗ nào đó khác. Không ai đã chăm nom tới nhu cầu bên trong của bạn. Bố mẹ bạn, xã hội của bạn đã chăm nom tới nhu cầu bên ngoài của bạn… và họ không thể bị kết án, vì không ai đã chăm nom tới nhu cầu bên trong của họ. Bên trong họ là trống rỗng.

Có lẽ họ không thể thoát được dễ dàng thế vì có nhiều ràng buộc. Vợ có đó, con có đó, việc làm có đó.

Đó là lí do tại sao mọi thế hệ trẻ hơn là một thế hệ cảm nhận các ý tưởng mới, các kinh nghiệm mới, không gian mới, vì họ không trong lệ thuộc. Họ có thể thoát khỏi mọi thứ, trong việc tìm nhà. Và trong ba mươi năm đã qua này hiện tượng này đã trở thành rất nổi bật, bởi lẽ đơn giản là trong quá khứ thế hệ trẻ hơn không bao giờ tồn tại.

Bạn sẽ ngạc nhiên mà biết rằng thế hệ trẻ hơn là hiện tượng rất đương đại. Trong các nước cổ như Ấn Độ, nơi tám mươi phần trăm mọi người sống trong các làng và không có tiếp xúc với thế giới đương đại, nó vẫn là như cũ: không có kẽ hở thế hệ, vì không có thế hệ trẻ hơn để tạo ra kẽ hở.

Mọi sự chuyển vận theo cách vào lúc đứa trẻ lên sáu, nó bắt đầu làm việc cùng bố nó – những việc nhỏ nó có thể làm. Nếu bố là nông dân, nó đi ra nông trại, nó lấy thức ăn của bố nó cho nông trại – những thứ nhỏ – nó mang bò từ nông trại về nhà, bất kì cái gì nó có thể làm. Nó còn chưa trở thành thanh niên; nó là đứa trẻ, và nó đã lấy bước nhảy lượng tử – nó đã nhận trách nhiệm. Thời tuổi trẻ giữa sáu tuổi tới hai mươi nhăm bị bỏ lỡ bởi nó.

Đến lúc nó lên mười hay mười hai nó đã gần như học thương mại, việc làm. Bố nó có thể là thợ vàng, và nó học bí mật của nghề vàng.

Bố nó có thể là người làm vườn, và nó học bí mật của nghề làm vườn. Khi thời gian để thoát và cảm thấy tự do tới, nó đã trong lệ thuộc.

Đến tuổi hai mươi nó sẽ lấy vợ, có con riêng, việc làm riêng, trách nhiệm riêng – nó không thể trở thành người hippie; nó không thể đi tới Kabul, tới Kulu Manali, tới Kathmandu, tới Poona, tới Goa. Nó không thể thoát đi bất kì chỗ nào. Toàn thể con đường mọi người trẻ phải du hành, nó không thể đi – nó có quá nhiều trách nhiệm. Nó phải đi theo bố nó, từng bước một, vì bố nó không chỉ là bố nó mà còn là thầy giáo của nó nữa. Ông ấy dạy nó nghề của ông ấy.

Đó là lí do tại sao trong các nền văn hoá cổ, trong các nền văn minh cổ – và chúng vẫn hiện hữu trong sự tồn tại – người già hơn được kính trọng, vì không có cách nào cho người trẻ hơn biết nhiều hơn người già hơn. Cách duy nhất để biết là kinh nghiệm, và kinh nghiệm tới cùng với tuổi tác. Bạn kính trọng người có nhiều kinh nghiệm hơn. Người già nhất trở thành người khôn ngoan vì ông ấy đã sống toàn thể cuộc đời của ông ấy, và sự sống đã không thay đổi trong nhiều thế kỉ, nó vẫn diễn ra theo cùng một cách. Cho nên người khôn ngoan có thể gợi ý nhiều điều cho bạn mà người trẻ hơn không thể biết; họ phải được kính trọng.

Chính trong thế giới đương đại cuộc cách mạng vô cùng đã xảy ra. Nó đã tạo ra một hiện tượng mới – thế hệ trẻ hơn. Vì trường phổ thông, cao đẳng và đại học, những người này không có trách nhiệm nào. Ý tưởng của hôn nhân trẻ con bị kết án, cho nên họ không xây dựng gia đình. Họ không có con. Họ không có bất kì việc làm nào. Bố mẹ của họ có mọi trách nhiệm cho việc giáo dục của họ. Cho nên mãi tới hai mươi nhăm tuổi họ hoàn toàn không có trách nhiệm.

Và đây là lúc mà tâm trí là lãng mạn nhất, vì đây là lúc – giữa mười bốn tới hai mươi nhăm – mà họ là có tính dục nhất. Năng lượng dục của họ làm cho họ thành lãng mạn, và năng lượng dục của họ làm cho họ thành những người lí tưởng lớn. Ai đó trở thành người vô chính phủ, ai đó trở thành người cộng sản, ai đó bắt đầu nghĩ về chốn không tưởng – thế giới sẽ phải thế nào. Hơn nữa, ở độ tuổi hai mươi nhăm, khi họ về nhà từ đại học, họ không thể chấp nhận rằng người già biết nhiều hơn họ biết.

Bây giờ một chiều hướng hiểu biết mới đã mở ra – đó là giáo dục. Người già hơn có thể biết nhiều qua kinh nghiệm, nhưng người trẻ hơn đã biết hàng trăm lần hơn qua giáo dục. Do đó, trên khắp thế giới sự kính trọng với người già, với người lớn tuổi, đã sút giảm. Nó đã dựa trên nền tảng nào đó và nền tảng đó đã biến mất.

Bây giờ tri thức mới nhất được biết bởi người trẻ hơn. Người già hơn mang các ý tưởng lỗi thời. Và các ý tưởng đang thay đổi nhanh, khoa học đang tiến bộ nhanh tới mức ngay cả các giáo sư đã bắt đầu cảm thấy họ không còn được kính trọng bởi vì bất kì cái gì họ biết đều gần như lỗi thời. Khi họ tốt nghiệp từ các đại học nó đã là điều đúng; bây giờ hai mươi năm đã trôi qua. Trong hai mươi năm nhiều thứ đã thay đổi tới mức bất kì sinh viên thông minh nào cũng có thể bắt bẻ lại họ – về bất kì cái gì; anh ta phải đi tới thư viện đại học và nhìn vào sách đã được xuất bản về chủ đề đó trong hai mươi năm này.

Khi tôi còn ở đại học, tôi đã đề nghị ông phó hiệu trưởng rằng ít nhất một lần trong một năm nên có cuộc thi tranh luận giữa thầy giáo và sinh viên.

Ông ấy nói, “Thầy đang nói gì vậy?”

Tôi nói, “Khi thầy có thể có thi đấu tennis giữa thầy giáo và sinh viên, có thi đấu bóng chuyền giữa sinh viên và thầy giáo, cái gì sai với gợi ý của tôi? Thực ra những cuộc thi đấu kia là loại thể chất; điều này là gần hơn nhiều với công việc của đại học – cuộc thi trí tuệ. Và nó sẽ giúp toàn thể đại học biết các giáo sư bị lạc hậu thế nào.

“Và những giáo sư này liên tục đòi hỏi rằng họ phải được kính trọng. Họ không biết rằng vào thời cổ những người già cả đã được kính trọng – ngay cả các giáo sư đã được kính trọng – nhưng lí do cho điều đó đã biến mất. Điều tốt là làm rõ ràng cho họ rằng họ có thể được kính trọng chỉ nếu họ có thể vẫn còn ở phía trước các sinh viên.”

Ông ấy nói, “Thầy dường như logic về điều đó, nhưng đó là điều nguy hiểm. Nếu sinh viên nào đó đoạt cúp và giáo sư thua, bất kì kính trọng nào còn lại cũng sẽ biến mất!”

Tôi nói, “Nó phải biến mất chứ. Họ sẽ phải học. Thầy sẽ phải tạo ra phương pháp mới, làm mới lại môn học cho các thầy giáo. Khi sinh viên vào kì nghỉ hai tháng mùa hè, các giáo sư phải tham dự các môn học gợi nhớ để cho họ không bị tụt sau sinh viên. Họ phải vẫn còn ở phía trước. Chỉ thế thì họ có thể có sự kính trọng; bằng không họ không thể có sự kính trọng.”

Và tại sao những người trẻ này có tính nổi dậy vậy? Họ thực sự đang đi tìm căn cước thực của họ. Không ai đã nói cho họ xem họ là ai. Và họ đang làm đủ mọi loại việc kì lạ… nhưng đó là trên đường đi tìm bản thân họ. Họ là bạo hành vì họ đang cảm thấy giận chống lại thế hệ già hơn, chống lại bố mẹ của họ, chống lại các thầy giáo của họ, và giận của họ biến thành bạo hành. Bạn đã tạo ra thế hệ mới, thế hệ trẻ hơn, nhưng bạn đã không có khả năng cung cấp cái gì đó nuôi dưỡng họ.

Thế hệ trẻ hơn đang cảm thấy rất trống rỗng, và nó không có trách nhiệm, cho nên nó thử thoát ra – từ cái này sang cái khác, thử mọi thứ: ma tuý, yoga, bất kì cái gì ngẫu nhiên họ có được, với hi vọng “có lẽ đây là thứ dành cho mình.” Nhưng không có hướng dẫn, và kẽ hở liên tục trở nên lớn hơn. Bố mẹ và con cái gần như không còn từ để nói, vì con cái nghĩ những người già này chả biết gì, và người già nghĩ rằng tụi trẻ này chỉ là mối phiền toái.

Và kẽ hở này sẽ tăng trưởng ngày càng lớn hơn mọi ngày, vì khoa học đang tìm ra các phương tiện để kéo dài sự sống của bạn. Nếu sự sống của bạn được kéo dài ra, nếu mọi người bắt đầu sống một trăm tuổi, một trăm hai mươi tuổi, thế thì cách duy nhất sẽ là cho thế hệ trẻ hơn thậm chí nhiều năm hơn, để cho mọi người có thể trở thành tiến sĩ Ph.D., mọi người có thể có bằng tiến sĩ văn chương, tiến sĩ khoa học, và chúng ta có thể tạo ra nhiều giáo dục hơn để lấp vào các kiếp sống của họ. Có lẽ ở độ tuổi ba mươi nhăm họ sẽ được cho ra từ đại học; bằng không họ sẽ làm gì?

Người già hơn được trải nghiệm trong công việc của họ và họ đang làm công việc của họ. Nhưng người đã hiện hữu một cách đầy đủ mà không có bất kì trách nhiệm nào mãi cho tới tuổi ba mươi nhăm sẽ tạo ra một loại cấu trúc khác toàn bộ. Người đó sẽ không nghe bất kì ai, và người đó sẽ không có bất kì căn cước nào của riêng người đó.

Tình huống này có thể được thay đổi vào trong một thế giới rất đẹp. Chẳng hạn, tôi đã từng dạy ở đại học nhưng không sinh viên nào đã cảm thấy bất kì kẽ hở thế hệ nào giữa tôi và anh ta, ở bất kì điểm nào. Đó không chỉ là vấn đề về tri thức…

Ngày đầu tiên tôi vào lớp các học sinh nữ ngồi một bên và học sinh nam ngồi bên kia, để ra sáu hàng ghế ở giữa. Tôi nói, “Thầy không thể chịu được điều này. Điều này vô nghĩa làm sao? Thầy sẽ nói với những cái ghế này sao? Các em đứng dậy và trộn lẫn lại, và ngồi trước thầy.”

“Nhưng,” họ nói, “mọi giáo sư đều nói rằng con gái phải ngồi tách riêng và con trai phải ngồi tách riêng.”

Tôi nói, “Đó là vấn đề của họ, không phải của thầy. Thầy không thích con gái ngồi xa khỏi con trai, và con trai ném những tờ ghi chép nhỏ – `Tớ yêu cậu’ – và con gái ném câu trả lời lại. Thầy không thích điều này. Cứ ở gần lại, và bất kì cái gì các em muốn nói, nói vào tai nhau. Không có vấn đề gì. Đây là lúc để yêu, và các em đang làm phí hoài nó trong việc ném những mẩu giấy ghi chép. Khi nào các em sẽ yêu?”

Tôi trộn lẫn họ lại. Họ nhìn nhau với nghi ngờ lớn. Họ vẫn ngồi theo cách không ai chạm vào bất kì ai. Tôi nói, “Điều này sẽ không có tác dụng đâu. Ngồi thảnh thơi vào. Chạm vào con gái hay chạm vào con trai không phải là tội. Giờ là ngày lạnh và các em sẽ cảm thấy ấm hơn. Là ấm hơn đi!”

Họ nói, “Trời! Nếu thầy hiệu phó đi tới biết, họ sẽ đuổi giáo sư này ra!”

Họ yêu thích tôi suốt những năm tôi ở đại học. Và các giáo sư khác đã hỏi, “Bí mật của thầy là gì? Thầy chỉ có mười sinh viên, nhưng ít nhất hai trăm người dự lớp của thầy, những người không là sinh viên của thầy. Họ bỏ lớp của họ và tới nghe thầy. Bí mật của thầy là gì?”

Tôi nói, “Không có bí mật nào cả. Tôi đơn giản không cho phép bất kì kẽ hở nào giữa tôi và họ. Tôi bao giờ cũng ở trước họ; họ không thể ở trước tôi.”

Tôi đã bảo họ, “Bất kì người nào muốn đi ra khỏi lớp, cứ đi ra; không cần hỏi thầy, vì nếu các em muốn đi ra thầy là ai mà ngăn cản hay cho phép các em? Các em đơn giản đi ra – chỉ không làm rối bất kì ai. Nếu các em muốn vào giữa chừng bài giảng, đơn giản bước vào và im lặng ngồi đâu đó. Không cần hỏi xin, vì điều đó làm rối. Việc tới và đi của các em không quấy rối thầy.”

Nhưng không ai tới và đi. Lớp đầy trước khi tôi tới và tôi đã làm rõ ràng cho họ rằng không ai phải đứng lên khi tôi đi vào lớp. Điều đó là lệ thường: sinh viên phải đứng dậy để biểu lộ sự kính trọng của họ. Tôi nói, “Điều đó là tuyệt đối không cần thiết. Không luyện tập đứng lên và ngồi xuống nào có thể làm cho các em kính trọng với thầy. Cho nên cứ vẫn ngồi đi.”

Điều đơn giản được cần là phải không có kẽ hở theo bất kì cách nào. Tôi đã bảo họ, “Nhớ lấy, nếu thầy không tới, đợi thầy trong năm phút và thế rồi giải tán một cách im lặng. Điều đó có nghĩa là thầy không tới. Và điều này sẽ là thường xuyên, vì thầy ở ngoài thành phố và thầy ở đó không có phép, Đại học không thể ban cho thầy nhiều phép thế. Thầy sẽ hoàn thành môn học của các em, cho nên đừng lo về điều đó. Cứ đợi thầy năm phút và thế rồi rời khỏi lớp một cách im lặng.

“Và nếu các em không muốn tới, thầy sẽ đợi các em năm phút, và thế rồi thầy sẽ rời đi. Thầy sẽ không hỏi các em tại sao các em không tới hôm nay, mà các em cũng không hỏi thầy tại sao thầy không tới. Đây là thoả thuận.”

Và trong chín năm liên tục tôi đã du hành khắp nước, nhưng tôi vẫn được cho là đang dạy trong đại học. Không một sinh viên nào báo cáo rằng tôi đã ở ngoài trong thành phố và tôi đã không được phép từ đại học. Tất cả họ đã bảo vệ tôi vì tôi đã có tính bảo vệ họ. Tôi không bao giờ nhận sự có mặt của họ. Tôi đơn giản đánh dấu sự hiện diện của họ mọi ngày – và điều đó nữa, không phải mọi ngày, nhưng đến cuối tháng khi người ghi chép tới văn phòng, tôi sẽ chỉ liệt kê mọi người là có mặt.

Và gần như mọi người đều có mặt, trừ phi có cái gì đó khẩn cấp – ai đó ốm, hay ai đó bị tai nạn; đó là chuyện khác. Chúng tôi có sự đồng cảm tới mức toàn thể các giáo sư đã ghen tị, vì họ liên tục trong trạng thái tranh đấu với sinh viên; sinh viên bãi khoá và tranh đấu và nhịn ăn, và đủ mọi thứ đã diễn ra, nhưng không có trong lớp của tôi. Vì nếu họ bảo tôi, “Chúng em muốn bãi khoá,” tôi sẽ hỏi, “Bao nhiêu ngày? – để cho thầy có thể có chuyến đi, vì các em sẽ bãi khoá cho nên thầy tự do.”

Thế hệ mới thực sự ở trong tình huống khó khăn; nó không thể điều chỉnh với thế hệ già. Nó biết nhiều hơn thế hệ già hơn. Nó biết rằng những người già đó chỉ là lão suy, nhưng nó không biết đi đâu từ đây. Làm gì để tìm ra bản thân bạn? Trong quá khứ không ai đã có phiền phức đó. Con trai của thợ vàng sẽ trở thành thợ vàng; điều đó được định mệnh. Con trai thợ mộc sẽ trở thành thợ mộc. Từ thời trẻ thế anh ta sẽ bắt đầu giúp cho bố mình bằng việc mang tới các công cụ, dụng cụ, và dần dần anh ta trở thành người học nghề theo bố riêng của anh ta. Cuối cùng anh ta sẽ thay thế bố mình. Không có thời gian còn lại như kẽ hở.

Và kẽ hở làm sao! Kẽ hở của ít nhất hai mươi năm trong đó bạn không biết bạn là ai, bạn đang đi đâu, bạn đang làm gì, tại sao bạn làm nó – mọi câu hỏi, cho nên mọi người đang cố thoát ra. Mọi chỗ họ đạt tới, họ thấy cái này không dành cho họ.

Điều đó là tự nhiên. Bạn đang tìm căn cước của bạn. Bạn đang tìm nhóm người cảm thấy thích bạn, người có trái tim đập như bạn. Bạn đang thiếu người hướng dẫn điều các thế hệ già hơn không bao giờ thiếu. Bố họ, ông họ đã là người hướng dẫn của họ. Họ đã tìm thấy họ được làm sẵn trong nhà. Không cần đi bất kì đâu.

Thế hệ mới không thể chấp nhận được họ vì nó biết nhiều hơn họ biết. Nó muốn ai đó biết nhiều hơn – không chỉ biết nhiều hơn, mà là hiện hữu nhiều hơn – người có hiện hữu nhiều hơn.

Đó là lí do tại sao, khi nhìn vào mắt tôi bạn cảm thấy rằng cơn sốt về trốn thoát từ mọi nơi đã biến mất.

Chúng ta cần ngày càng nhiều người có thể trao cảm giác này cho hàng trăm người trẻ, rằng họ đã tìm ra người hướng dẫn, người bạn mà họ có thể tin cậy. người có thể trở thành hi vọng của họ.

Và đó là ý tưởng của tôi về điều chúng ta sẽ mở vào các nước khác nhau. Đầu tiên tôi phải làm ra mô hình của trường huyền bí ở một chỗ. Và chúng ta sẽ mở chúng ở khắp thế giới, để cho người trẻ người không có hướng dẫn và rơi vào trong tay của kẻ khai thác, kẻ ngu, đủ loại người bịp bợm… điều này có thể được dừng lại. Những trường huyền bí này có thể lấp vào kẽ hở – kẽ hở thế hệ. Họ có thể tạo ra kính trọng cho bố mẹ bạn và họ có thể tạo ra nghệ thuật nuôi dưỡng con cái riêng của bạn khi thời gian tới. Và họ có thể cho bạn kinh nghiệm về con người riêng của bạn.

Đây là sự cần thiết lớn. Nếu nó không xảy ra, thế thì thế hệ trẻ hơn sẽ thành những kẻ khủng bố, hay đủ mọi thứ họ sẽ làm – phong trào Hare Krishna, mà đơn giản ngu xuẩn, Nhân chứng Jehovah… nhưng họ sẽ bị mắc ở đâu đó. Nếu họ không thể tìm ra chỗ đúng họ nhất định bị mắc ở đâu đó.

Họ thường trở thành người hippies; bây giờ điều đó đã đi ra từ mốt thời thượng. Bây giờ có du côn, lũ trọc đầu, và đủ mọi loại ngu xuẩn! – nhưng thực sự họ ở trong chân không, và họ muốn căn cước nào đó. Cho nên bất kì cái gì cũng được, và họ sẽ làm đủ loại hành động điều có tính phá huỷ chẳng vì lí do gì chút nào, bởi lí do đơn giản rằng họ đang làm cái gì đó – cái gì đó có tầm quan trọng lớn.

Trường huyền bí có thể quản lí mọi người này dần dần, dần dần.

Hàng nghìn người hippies đã tới đạo tràng Poona – và đã thay đổi. Họ đã không tới để thay đổi, họ chỉ trên đường hướng tới Goa. Và ai đó bảo họ rằng ở ngay giữa đường là Poona – chẳng mất gì, chỉ cuộc viếng thăm một hay hai ngày. Nhưng họ không bao giờ rời khỏi Poona. Và không ai bảo họ thay đổi, chỉ toàn thể bầu không khí… và họ bỏ những thói quen bẩn thỉu của họ. Họ có vẻ con người và thông minh hơn và sớm không có cách nào để khám phá ra ai đã tới từ những người hippie và ai đã tới từ người thẳng thắn. Không có cách nào, tất cả họ là như nhau.

Tất cả những người này có thể được hấp thu trong trường huyền bí. Chúng ta chỉ phải tạo ra từ lực cho mọi trường huyền bí, cái không phải là việc khó.

 

Từ “Con đường của nhà huyền bí”, T.1, Ch.22 Người quan sát không vui cười