Không khoe khoang

Không khoe khoang.

Atisha thực sự hay, rất thấu cảm. Lời kinh của ông ấy có vẻ dường như ông ấy đang lấy cú nhảy lượng tử, chúng dường như là không liên quan. Chúng không phải vậy; có mối quan hệ bên trong – vì khi cái nhìn phiêu diêu này xảy ra cho bạn, bạn sẽ bắt đầu khoe khoang. Khi nhận biết này xảy ra cho bạn, cuộc tấn công cuối cùng của bản ngã nhất định xảy ra nữa. Điều đó là không tránh khỏi. Bạn sẽ bắt đầu cảm thấy ta là đúng hơn. Bạn sẽ bắt đầu đi như thánh nhân, bạn sẽ bắt đầu cảm thấy, trưng ra, rằng bạn không phải là người hữu tử bình thường, rằng bạn là phi thường, rằng bạn không là của thế giới này, rằng bạn là siêu việt.

Và mặc dầu mọi điều này là đúng, Atisha nói: Xin đừng khoe khoang. Ông ấy không nói rằng bạn đang nói dối. Mọi điều này là thực; khi nhận biết xảy ra, phép màu bắt đầu xảy ra. Từng khoảnh khắc trở thành phép màu thế, và bạn bắt đầu soải cánh bay cao, bạn bắt đầu đạt tới những đỉnh cao mới trong mọi thứ. Bất kì cái gì bạn làm đều trở thành vui sướng thế, và bất kì chỗ nào bạn đi, sự sống xuất hiện là thiêng liêng thế. Và bạn có thể thấy nữa, rằng bất kì chỗ nào bạn đi, bạn mang sự linh thiêng nào đó cho chỗ đó. Không phải là những điều này là dối trá; những điều này đang xảy ra. Nhưng nếu bạn bắt đầu khoe khoang, mọi thứ này sẽ biến mất, vì bản ngã đã đi vào theo cách tinh vi thế, và bạn không thể kiểm tra nó và bạn không thể điều tra nó.

Bản ngã sẽ cưỡi lên kinh nghiệm tâm linh của bạn bây giờ. Người ta bây giờ phải rất cẩn thận. Người không thiền có thể bất cẩn – người đó có thể có khả năng bất cẩn, vì người đó không có gì để mất. Nhưng thiền nhân không thể là bất cẩn, người đó có nhiều thứ để mất. Các kho báu có đó bây giờ và chúng có thể bị mất trong một giây.

Khi bạn bắt đầu đi tới những cõi cao hơn, bạn có thể ngã rất dễ dàng – và việc ngã sẽ là lớn. Nếu bạn ngã khi bước đi trên đường M.G. không có mấy nguy hiểm, nhưng nếu bạn ngã từ Everest điều đó là rất nguy hiểm, bạn có thể không sống sót chút nào.

Cho nên những người bắt đầu đi vào thế giới của thiền phải học tính rất cẩn thận. Đường thì hẹp, và ngay bên cạnh đường là vực thẳm lớn. Một bước sai và bạn sẽ ngã – và bạn sẽ ngã một cách nghiêm trọng. Có thể mất nhiều năm hay thậm chí nhiều kiếp để bạn đạt tới cùng chiều cao này lần nữa. Và nếu một khi bạn ngã từ không gian nào đó, xu hướng là ở chỗ bạn sẽ lại ngã từ cùng không gian này; điều đó trở thành thói quen của bạn.

Quan sát của tôi là thế này: rằng thiền nhân học các thói quen của việc bao giờ cũng ngã từ giai đoạn nào đó, cho nên bất kì khi nào trạng thái đó lại có đó, họ ngã. Nỗ lực lớn được cần để lại đại tới nó, nhưng bây giờ nó trở thành một điểm mà tâm trí đột nhiên lấy bước sai, theo thói quen, một cách máy móc. Cho nên tốt hơn cả là nhận biết khi lần đầu tiên bạn đi lên cao, để cho không thói quen ngã nào được tạo ra trong bạn.

Không khoe khoang.

Kinh nghiệm tâm linh phải không được nói tới. Nếu nhu cầu lớn nảy sinh trong bạn để nói về nó bạn có thể đi tới thầy của bạn, bạn có thể chia sẻ với thầy của bạn. Không có nguy hiểm trong nó, vì chia sẻ với thầy bao giờ cũng giúp ích. Ngay chỗ đầu tiên, bất kì cái gì bạn mang tới thầy, thầy sẽ làm cho bạn cảm thấy rằng nó không là gì: “Đừng ngu, đây chỉ là chuyện tầm phào. Quên mọi thứ về nó đi.” Ngay cả bạn mang niết bàn tới cho thầy, thầy sẽ nói, “Cái này không là gì cả – vứt nó đi! Để nó ở chỗ ông để giầy” – ngay cả niết bàn!

Đó là một trong những bí mật của thầy trong công việc của thầy với đệ tử. Thầy sẽ không bao giờ vỗ lưng bạn, thầy sẽ không bao giờ nói, “Tốt! Ông được đấy, ông đã đạt tới!”

Thứ hai, thầy bao giờ cũng làm cho bạn nhận biết rằng các kinh nghiệm, dù đẹp tới đâu, vẫn là kinh nghiệm. Cái thực không phải là cái được trải nghiệm, nhưng là người trải nghiệm. Nhấn mạnh của thầy bao giờ cũng sẽ là hướng tới nhân chứng, hướng tới tính chủ thể bên trong, không hướng tới đối thể.

Ai đó nhìn thấy ánh sáng lớn – và đó thực sự là niềm hân hoan lớn khi bạn nhìn thấy ánh sáng bên trong. Bạn không muốn bước trên đất; bạn vui mừng thế bạn mất mọi trọng lượng, sức hút không còn vận hành trên bạn. Bạn cảm thấy dường như, nếu bạn muốn, bạn có thể bay.

Nhưng nếu bạn đi tới thầy, thầy sẽ nói, “Vậy thì sao nào? Điều này xảy ra cho mọi người. Điều này chẳng là gì đặc biệt, người khác đang làm tốt hơn nhiều. Đây chỉ là một kinh nghiệm, và kinh nghiệm ngụ ý cái gì đó bên ngoài. Nhớ người trải nghiệm, nhớ người đang trải nghiệm ánh sáng. Ông không là nó: ông là nhân chứng cho nó. Vâng, ánh sáng có đó, nhưng ông không là nó. Ông là người đã thấy ánh sáng này. Nhớ tới người thấy.”

Các thầy là những nghệ sĩ lớn trong việc kéo chân. Bạn có thể đang đứng thẳng và họ sẽ kéo chân bạn và bạn sẽ ngã sóng xoài trên đất. Và lần sau khi kinh nghiệm tâm linh lớn nào đó xảy ra, bạn sẽ sợ ngay cả đi tới thầy và kể cho thầy về điều đó. Điều này là rất bản chất.

Và điều thứ ba: có những thứ mà, nếu bạn nói về chúng, nếu bạn trưng bày chúng, năng lượng được cần để nuôi dưỡng chúng bắt đầu đi vào trong việc trưng bày chúng.

Hạt mầm cần được giấu kín trong đất. Nó phải không được mang ra lặp đi lặp lại; nếu bạn mang nó ra bạn sẽ giết chết nó. Và những kinh nghiệm tâm linh này giống như các hạt mầm lớn. Đệ tử phải học nghệ thuật giữ bí mật. Đây là một trong những phần rất bản chất của việc hiện hữu cùng thầy: năng lực giữ bí mật.

Tôi đã nghe nói: một người đang đi tìm thầy, người đã đạt tới bí mật tối thượng. Ông ta đã đi tới nhiều người nhưng chung cuộc bị thất vọng, chán nản. Thế rồi ông ta nghe nói rằng ở nơi xa xôi, sâu trong sa mạc, có một ông già đã đạt tới bí mật tối thượng, nhưng thuyết phục ông ấy là rất khó; ông ấy không chấp nhận đệ tử một cách dễ dàng.

Người này bị thách thức. Ông ta bán mọi thứ ông ta có và du hành tới sa mạc. Phải mất ba năm cho ông ta đi tới đó. Hoàn toàn mệt mỏi, tả tơi với toàn thể việc tìm kiếm… nhiều lần ông ta đã quyết định quay về, nhưng điều đó chống lại bản ngã của ông ta, bản ngã của người tìm kiếm – “Mọi người sẽ nói gì? Trở về nhà họ sẽ cười và họ sẽ nói, ‘Chúng tôi đã bảo ông như vậy từ trước rồi!'”

Thế là ông ta kiên trì, kiên nhẫn, và chung cuộc đã đạt tới. Đúng, ông già này có cái gì đó; nó đã là hiển nhiên thế, nó đã là rõ ràng thế. Ông ta đã gặp nhiều thầy, nhưng toàn là hư huyễn, bịp bợm; người này đã có cái gì đó. Ông ta nhìn vào trong mắt của ông già và ông ta đã thấy chiều sâu thế mà ông ta chưa bao giờ thấy.

Ông già đang ngồi dưới cây, và toàn thể rung động quanh cây là mênh mông tới mức người này bị tràn ngập. Ông ta bắt đầu cảm thấy say sưa. Ông ta sụp xuống chân ông già và nói, “Tôi đã tới để tìm bí mật tối thượng. Thầy có thể nói nó cho tôi được không?”

Và thầy nói, “Thế thì trong ba năm ông sẽ phải là im lặng, không một lời nào được thốt ra. Hầu ta trong ba năm trong im lặng tuyệt đối. Nếu ông có thể xoay xở điều đó, thế thì ta có thể nói cho ông bí mật, vì bí mật này phải được giữ bí mật. Nếu ông có thể xoay xở im lặng trong ba năm, điều đó sẽ là chỉ dẫn rằng ông có năng lực giữ cái gì đó bên trong bản thân ông.”

Người này đồng ý. Ba năm đó thực sự là dài, gần như ba kiếp sống… sa mạc, không ai khác, chỉ ông già này, và im lặng – im lặng của sa mạc, im lặng của ông già, và ba năm. Điều đó dường như là nhiều nhiều năm đã trôi qua. Khi ba năm kết thúc, người này hỏi, “Bây giờ, thưa thầy, ba năm qua rồi. Nói cho tôi bí mật.”

Thầy nói, “Bây giờ ông phải làm lời hứa rằng ông sẽ không bao giờ nói bí mật này cho bất kì người nào – không bao giờ, không bao giờ. Lời hứa tuyệt đối là được cần.”

Người này nói, “Tôi hứa! Tôi hứa với thầy, tôi hứa với Thượng đế, với toàn thể tấm lòng của tôi, rằng tôi sẽ không bao giờ tiết lộ bí mật này cho bất kì người nào.”

Ông già bắt đầu cười. Ông ấy nói, “Điều đó là tốt. Vậy ông nghĩ gì, nếu ông có thể giữ nó là bí mật cho cả đời của ông, còn ta thì không? Đây là lời hứa mà ta đã nói cho thầy riêng của ta: ta không thể tiết lộ nó! Nhưng ta sẽ nói cho ông một điều,” ông ấy nói. “Cùng điều này đã xảy ra với thầy ta. Ba năm ta đã vẫn còn im lặng, và nó đã dài như nó đã dài với ông. Và thế rồi ngày đó đã tới, và ta đã sung sướng rằng trong ba năm ta đã giữ im lặng. Đích xác cùng điều đã xảy ra! Ta đã hỏi ông ấy về bí mật này và ông ấy nói, ‘Hứa rằng ông sẽ không bao giờ tiết lộ bí mật này cho bất kì người nào.’ Ta đã hứa, và ông ấy đã cười theo cách ta đã cười, và ông ấy nói, ‘Vậy ông nghĩ gì, nếu ông có thể giữ nó là bí mật, còn ta thì không?’

“Cho nên thực ra không có bí mật. Toàn thể nghệ thuật là việc giữ nó; vấn đề không phải là về bí mật. Việc hiểu riêng của ta là ở chỗ cùng điều này đã từng xảy ra lặp đi lặp lại. Điều này phải đã xảy ra với thầy của ta và thầy của ông ấy, và cứ thế mãi. Dường như không có bí mật, nhưng chúng ta đã học được nhiều bằng việc giữ nó!”

Thấy ra vấn đề đi: nếu bạn có thể giữ một bí mật… dù bí mật này là xứng đáng giữ hay không, điều đó không phải là vấn đề. Liệu có bí mật hay không, đó không phải là vấn đề. Thầy có thể đã thì thào vào tai bạn rằng “Hai cộng với hai là bốn: bây giờ giữ nó là bí mật.” Điều đó sẽ có tác dụng – vấn đề không phải là nó là gì, vấn đề là bạn có thể giữ cái gì đó bên trong bạn không?

Mới hôm nọ tôi đã nói cho Radha, “Bây giờ bạn phải giữ điều này là bí mật.” Tôi đã không nói bất kì bí mật nào cho cô ấy, nhưng cô ấy đã hứa. “Vâng,” cô ấy nói, “tôi sẽ giữ nó.” Tôi bảo cô ấy, “Bạn là người buôn chuyện, một trong những người buôn chuyện lớn nhất trong tâm xã, cho nên bạn phải giữ nó là bí mật.” Và cô ấy đã hứa. Tôi không biết cô ấy đã hứa cho bí mật gì, nhưng bây giờ cô ấy phải giữ nó! Nghệ thuật là trong việc giữ nó.

Không khoe khoang.

Đừng trưng ra. Xu hướng tự nhiên của tâm trí là trưng ra. Và khi bạn có cái gì đó đặc biệt – chẳng hạn, bạn có thể đọc ý nghĩ của ai đó – điều rất tự nhiên là đi và trưng nó cho mọi người.

Có lần một người Mô ha mét giáo một thanh niên đã ở cùng tôi trong nhiều năm – một anh chàng rất bướng bỉnh – và bất kì cái gì tôi cho anh ta để làm, anh ta sẽ để toàn thể hoạt động của mình vào trong nó. Thế rồi một hôm chuyện xảy ra là anh ta bắt đầu đọc ý nghĩ của mọi người. Rất khó cho tôi giữ anh ta im lặng về điều đó. Và đây là xâm lấn, đọc ý nghĩ của bất kì người nào; đó là đi vào tính riêng tư của người đó.

Vì tôi đã bảo anh ta giữ nó cho bản thân anh ta, đừng bao giờ thực hành nó, anh ta đã giữ nó. Từ việc giữ nó là bí mật và không trưng ra và không thực hành nó, phẩm chất khác đã nảy sinh ra từ nó: anh ta đã trở nên có khả năng đặt ý nghĩ vào trong tâm trí của bạn rất dễ dàng mà không có việc biết của bạn. Bất kì điều gì anh ta muốn để vào trong tâm trí của bạn, bạn sẽ lập tức hành động tương ứng. Anh ta đã trở thành một loại Delgado, và không có bất kì điện cực nào. Anh ta đã khám phá ra nó một cách bất ngờ….

Tôi đã phái anh ta đi một cuộc hành trình; anh ta ngồi trên xe bus, và chợt một ý tưởng, chỉ ý tưởng, đột nhiên tới trong tâm trí anh ta: nếu anh ta có thể đọc được ý nghĩ của mọi người, anh ta không thể đặt ý nghĩ vào tâm trí của ai đó sao? từ không đâu cả?

Vì tôi đã không bảo anh ta bất kì cái gì về điều đó, anh ta đã thử. Anh ta chỉ thử với người đang ngồi ở chỗ ngồi phía trước anh ta: “Ngã khỏi chỗ ngồi của anh” – và người này ngã xuống! Bản thân anh ta bị sốc, nhưng thế rồi anh ta nghĩ điều đó có thể chỉ là trùng hợp ngẫu nhiên, người này sắp ngã. Thế là anh ta thử trên người khác, và lần nữa điều đó đã xảy ra. Anh ta trở nên sợ thế, và ý tưởng này bắt đầu hành hạ anh ta: “Sao không làm cho cả xe bus đổ xuống núi?” Anh ta phải dừng người lái xe lại và xuống xe bus ở giữa cuộc hành trình.

Anh ta trở lại với tôi và anh ta nói, “Điều này rất nguy hiểm. Tôi đã thử trên hai người; nó có tác dụng, và thế rồi ý tưởng này tới với tôi, ‘Sao không thử với toàn thể xe bus?'”

Nếu bạn đi vào trong thế giới của thiền, đây là những điều nhỏ mà bắt đầu xảy ra. Tránh chúng, đừng bao giờ dùng chúng, đừng bao giờ trưng ra, và không nói về chúng – vì nếu bạn nói, mọi người sẽ nói, “Bây giờ đưa ra bằng chứng nào đó đi.” Nếu bạn nói về chúng họ sẽ đòi bằng chứng. Thế thì bạn sẽ bắt đầu thực hành chúng và bạn sẽ sớm mất năng lượng.

Năng lượng được cần cho việc nuôi dưỡng bên trong. Khi cái gì đó lớn lên trong bạn, toàn thể năng lượng phải được biến thành phân bón. Đừng dùng nó bên ngoài theo bất kì cách nào. Cách tốt nhất để bắt đầu là: Không khoe khoang.

Từ “Sách về Trí huệ”, T.2, Ch.25