Vào lúc sinh, các điều kiện của tâm trí của đứa trẻ là đích xác giống như tấm nền ảnh chụp rất nhạy cảm…. Hai hay ba điều cần được nghĩ tới nếu chúng ta muốn hiểu cách sự sống bị ảnh hưởng. Và chỉ nếu sự sống bị ảnh hưởng mới có thể có khả năng có chiêm tinh học – không có điều khác.
Chúng ta phải cố hiểu hiện tượng sinh đôi. Hai kiểu sinh đôi tồn tại. Một kiểu là sinh đôi đồng nhất – những người được sinh ra từ một trứng. Kiểu kia là những người mà, mặc dầu họ là sinh đôi, được sinh từ các trứng tách rời; trong bụng mẹ hai trứng trở nên được thụ tinh, và hai đứa trẻ được sinh ra. Kiểu thứ nhất là hiếm hơn – hai đứa trẻ từ cùng một trứng. Họ là chủ đề rất có ý nghĩa để nghiên cứu, vì họ được sinh ra cùng lúc. Do sự cần thiết chúng ta gọi những đứa trẻ được sinh ra từ các trứng tách rời, là “sinh đôi,” nhưng khoảnh khắc sinh của họ không đích xác như nhau. Điều phải được hiểu là việc sinh là một hiện tượng mơ hồ. Khía cạnh thứ nhất của sinh là thụ thai – việc sinh thực xảy ra vào ngày mà phôi thai được thụ thai trong bụng của người mẹ. Đây mới là sinh thực tại. Điều bạn gọi là sinh thực sự là sinh số hai – khi đứa trẻ ra khỏi bụng mẹ.
Nếu chúng ta tiến hành nghiên cứu chiêm tinh đầy đủ – một mình như người Hindu đã làm, và làm rất thấu đáo – thế thì mối quan tâm thực tại sẽ không bắt đầu khi đứa trẻ được sinh ra. Mối quan tâm thực tại của chúng ta bắt đầu khi đứa trẻ bắt đầu cuộc hành trình của nó trong bụng người mẹ, khi phôi thai lấy hình thể – vì đó là việc sinh thực tại. Cho nên người Hindu cũng đã đi tới cảm thấy rằng nếu một kiểu trẻ em đặc biệt định lấy việc sinh, nó sẽ được sinh nếu giao hợp và mang thai xuất hiện dưới sự thu xếp của các hành tinh và chòm sao phù hợp nhất cho kiểu đó. Bây giờ tôi sẽ giải thích cho bạn chút ít về bối cảnh của điều này, vì nhiều công việc đã được làm trong khu vực này và nhiều thứ đã trở nên rõ ràng.
Bình thường, khi đứa trẻ được sinh ra vào sáu giờ sáng, chúng ta nghĩ rằng chòm sao tồn tại vào thời gian đó ảnh hưởng tới đứa trẻ. Cái nhìn của tôi là khác, khác căn bản. Chỉ vì đứa trẻ được sinh ra vào sáu giờ sáng, các ngôi sao không tung ảnh hưởng của chúng lên đứa trẻ. Không. Thay vì thế, đứa trẻ chọn được sinh ra dưới những ngôi sao mà sẽ ảnh hưởng lên nó như nó muốn được ảnh hưởng. Đây là điều khác biệt triệt để. Khi đứa trẻ lấy việc sinh, thế thì nó chọn các hành tinh và sao và khoảnh khắc mà tại đó nó sẽ lấy việc sinh. Và nếu chúng ta vẫn đi sâu hơn, thế thì đứa trẻ cũng chọn thời gian thụ thai nó.
Mọi hồn đều chọn thời gian thụ thai riêng của nó – khi nó sẽ chấp nhận bụng mẹ, vào khoảnh khắc nào. Khoảnh khắc thụ thai không phải là không có ý nghĩa. Điều có ý nghĩa trong đó chính là vấn đề về cách toàn thể vũ trụ tồn tại vào khoảnh khắc đó và vũ trụ mở cánh cửa vào khoảnh khắc đó cho loại khả năng nào.
Khi hai đứa trẻ được thụ thai cùng nhau từ một trứng, thế thì khoảnh khắc thụ thai của chúng là như nhau và khoảnh khắc sinh của chúng là như nhau. Điều thú vị là cuộc sống của hai đứa trẻ đã lấy việc sinh từ một trứng là giống nhau tới mức khó mà nói rằng khoảnh khắc sinh không có ảnh hưởng nào. Chỉ số I.Q. của hai đứa trẻ sinh đôi từ một trứng là bằng nhau. Và khác biệt li ti nếu mà nảy sinh – những người biết nói rằng đó là vì thiết bị đo sai số của chúng ta. Ngay cả bây giờ chúng ta vẫn không có khả năng xây dựng những tiêu chí thích hợp qua đó chúng ta có thể đo một cách định lượng sự thông minh.
Cho dù hai người sinh đôi từ cùng một trứng được nuôi dưỡng lớn lên tách rời lẫn nhau, dầu vậy chỉ số I.Q. của họ không khác nhau. Cho dù một đứa trẻ được nuôi lớn ở Ấn Độ và đứa kia ở Trung Quốc, và không ai nhận biết về sự tồn tại của người kia, điều này sẽ vẫn đúng. Các trường hợp đã xuất hiện mà hai người sinh đôi như vậy đã được nuôi lớn xa nhau cho tới khi họ đạt tới trưởng thành, nhưng I.Q. của họ không khác biệt. Điều đáng ngạc nhiên là I.Q. có thể được liên kết với tiềm năng của đứa trẻ vào lúc sinh.
Khi một người sinh đôi sống ở Trung Quốc chịu cái lạnh, vào lúc đó người sinh đôi kia sống ở Ấn Độ cũng chịu cái lạnh. Nói chung, người sinh đôi sinh từ một trứng chết trong cùng năm. Nhiều nhất, có khoảng chênh ba năm giữa các cái chết của họ, và ít nhất, ba ngày – nhưng không bao giờ nhiều hơn ba năm. Nếu một người sinh đôi đã chết thế thì chúng ta có thể cho là sau ba ngày hay trong vòng ba năm, người kia sẽ chết. Thái độ của họ, hành vi của họ, cảm giác của họ, đều tương đương, và dường như là hai người sống gần như đích xác theo cùng cách. Sự tương tự của họ được thấy trong nhiều điều khác nữa – từng người hành động như bản sao của người kia.
Có phải khoảnh khắc sinh có ảnh hưởng tới mức khoảng sống của họ là có cùng chiều dài, tới mức I.Q. của họ gần như bằng nhau, tới mức thân thể họ cư xử theo cùng cách, tới mức khi hai người bị ốm, đó là từ cùng một bệnh, và tới mức khi hai người lại trở nên khoẻ đó là từ cùng một thuốc không? Khoảnh khắc sinh có thể có ảnh hưởng thế sao?
Chiêm tinh học đã từng nói rằng khoảnh khắc sinh thậm chí còn quan trọng hơn điều này. Mãi cho tới giờ khoa học còn chưa đồng ý với chiêm tinh học, nhưng giờ nó bắt đầu đồng ý như vậy. Trong lúc đi tới sự đồng ý đang tăng lên này, một số thực nghiệm mới đã có giúp ích.
Chẳng hạn…. Vào lúc chúng ta phóng một vệ tinh nhân tạo vào không gian, chúng ta biết rằng mạng các kiểu phóng xạ vô hạn liên tục đổ ra từ vũ trụ và từ các chòm sao, và tràn lan qua toàn trái đất. Trên trái đất, không cái gì không bị ảnh hưởng bởi hiện tượng này. Chúng ta biết rằng đại dương bị ảnh hưởng bởi mặt trăng, nhưng chúng ta đã không xem xét sự kiện rằng cùng tỉ lệ cân xứng của nước và muối xuất hiện trong đại dương cũng xuất hiện trong thân thể con người – cùng tỉ lệ. Bốn mươi nhăm phần trăm thân thể con người bao gồm nước và tỉ lệ muối được chứa trong nước đó là cùng tỉ lệ như được chứa trong hàng nghìn vịnh. Nếu nước trong đại dương bị ảnh hưởng bởi trăng, thế thì làm sao nước bên trong thân thể con người vẫn còn không bị ảnh ưởng được?
Bây giờ, về việc này, hai hay ba sự kiện nổi lên từ những điều tra gần đây phải được nhớ trong tâm trí. Chẳng hạn, khi ngày trăng tròn tới, số chứng điên trên thế giới tăng lên. Và vào ngày cuối cùng của mười bốn ngày tối hơn, số người phát điên là ít nhất. Khi trăng trở nên sáng hơn tỉ lệ người điên cũng bắt đầu tăng lên. Vào ngày trăng tròn, số người vào nhà thương điên là lớn nhất; và vào ngày cuối cùng của thời kì trăng khuyết, số người được cho ra khỏi nhà thương điên là lớn nhất. Các thống kế bây giờ là sẵn có….
Trong tiếng Anh có từ lunatic; trong tiếng Hindi có từ chaandmara. Chaand nói tới trăng, cũng như lunar nói tới trăng trong tiếng Anh. Chaandmara là thuật ngữ rất cổ đại, và từ lunatic cũng cổ ba nghìn năm rồi. Quãng ba nghìn năm trước, ý nghĩ đã tới với con người rằng trăng làm cái gì đó với chứng mất trí. Nhưng nếu nó quả làm cái gì đó với tính mất trí, thế thì làm sao nó có thể tránh ảnh hưởng tới sự lành mạnh?
Trong phân tích cuối cùng, kết cấu xây dựng của bộ não và thành phần bên trong của thân thể là như nhau với mọi người. Vâng, có thể là trăng ảnh hưởng tới người điên tới mức độ nào đó, và sự lành mạnh tới mức độ ít hơn. Đây đơn giản là khác biệt về lượng. Nhưng không thể có chuyện rằng lành mạnh vẫn còn hoàn toàn không bị ảnh hưởng bởi trăng. Nếu điều đó là đúng, thế thì không ai có thể phát điên – vì mọi người phát điên đã có thời lành mạnh. Trăng trước hết phải làm cái gì đó với những người lành mạnh.
Giáo sư Brown đã làm một khảo cứu thú vị. Ông ấy là người hoàn toàn không có đức tin vào chiêm tinh học. Ông ấy là người không tin gì, và trong những bài viết ban đầu của mình, ông ấy đã rất chế nhạo chiêm tinh học. Nhưng mặc cho thái độ hoài nghi của mình, ông ấy đã bắt đầu việc điều tra nào đó. Ông ấy đã tập hợp lại những vấn đề về kundali, sơ đồ sinh của nhiều vị tướng nổi tiếng, tiến sĩ, và các nghề khác. Nhưng thế rồi ông ấy bản thân ông ấy gặp khó khăn lớn vì ông ấy khám phá ra rằng thành viên của những nghề nào đó đã được sinh ra dưới một hành tinh đặc biệt, dưới cùng chòm sao. Chẳng hạn, trong mọi vị tướng nổi tiếng, ảnh hưởng của sao Hoả lên đời sống của họ là rất mạnh. Trong cuộc sống của các giáo sư, ảnh hưởng của sao Hoả hoàn toàn vắng bóng.
Nghiên cứu mà Brown đã tiến hành với quãng năm mươi nghìn người là tướng lĩnh, làm lộ ra rằng trong cuộc sống của những người này ảnh hưởng của sao Hoả là rất mạnh. Nói chung, khi các nhân cách như vậy lấy việc sinh, hành tinh sao Hoả đi lên. Khoảnh khắc của việc sinh của họ là khoảnh khắc mà sao Hoả bắt đầu mọc lên. Chính cái đối lập với điều này, không thành vấn đề có bao nhiêu giáo sư trên thế giới, họ không bao giờ lấy việc sinh vào lúc lên của hành tinh sao Hoả. Nếu điều đó xảy ra chỉ thỉnh thoảng thôi, bạn có thể cho rằng đó là trùng hợp ngẫu nhiên – nhưng không thể có hàng trăm nghìn trường hợp trùng hợp ngẫu nhiên.
Các nhà toán học được sinh ra dưới chòm sao đặc biệt; các nhà thơ không bao giờ được sinh ra dưới cùng chòm sao này. Trong một trường hợp thỉnh thoảng có thể có sự trùng hợp, nhưng khi điều đó xảy ra thường xuyên thế nó không thể là sự trùng hợp ngẫu nhiên được.
Thực ra có khác biệt lớn trong hành vi của những người ở các nghề và nghiệp khác nhau – chẳng hạn, giữa các nhà thơ, nhà toán học, tướng lĩnh và người theo chủ nghĩa hoà bình. Ở mặt này có thể có người như Bertrand Russell người nói rằng phải có hoàn bình trên thế giới, và ở mặt khác có người như Nietzsche nói rằng ngày chiến tranh dừng lại sẽ dừng việc có nghĩa. Giữa họ chỉ có tranh cãi về trí tuệ, hay cũng là tranh cãi về các sao? Chỉ có khoảng cách trí tuệ giữa họ, hay khoảnh khắc việc sinh của họ cũng tách rời họ?
Nghiên cứu ngày càng được tiến hành, người ta càng khám phá ra rằng tài năng của một người được lộ ra bởi thời gian sinh của người đó. Những người thậm chí biết chút ít về chiêm tinh học nói rằng điều này xảy ra bởi việc sinh của người đó dưới một chòm sao đặc biệt. Nhưng tôi muốn nói với bạn rằng người đó chọn chòm sao để dưới đó người đó sẽ được sinh ra. Tương ứng với điều người đó muốn là vậy – dù khả năng bẩm sinh của người đó là gì, dù trạng thái của kiếp trước của người đó được lấy trong tính toàn bộ của nó là gì, dù tâm thức động cơ của người đó là gì – người đó sẽ được sinh ra dưới chòm sao thích hợp. Mọi đứa trẻ, mọi sự sống mới, đều nhấn mạnh vào một khoảnh khắc đặc biệt cho việc sinh trước việc đi vào của nó. Nó muốn được sinh ra vào khoảnh khắc đặc biệt, chỉ ở khoảnh khắc này nó mới muốn được được thụ thai. Ham muốn của nó và khoảnh khắc đó là tương thuộc.
Như tôi đã nói với bạn, nước của đại dương là chủ đề cho những ảnh hưởng nào đó. Nhưng mọi sự sống đều được tạo ra từ nước; không có nước, không sự sống nào là có thể. Cho nên ở Hi Lạp cổ đại, những người thấy thường nói rằng chỉ từ nước mà sự sống được sinh ra, rằng nước là sự sống. Các huyền thoại của người Ấn Độ, Trung Quốc và những huyền thoại khác cũng nói điều này. Ngày nay các nhà khoa học tin vào tiến hoá cũng nói rằng sự sống được sinh ra trong nước, rằng có lẽ sự sống đầu tiên trên hành tinh này đã sống trong nước. Đây đã là dạng sống đầu tiên, và thế rồi từ điều này, con người cuối cùng đã tiến hoá ra.
Nước là yếu tố huyền bí nhất trong mọi thứ.
Bất kì ảnh hưởng nào từ các ngôi sao đạt tới con người từ vũ trụ, từ không gian, đều đạt tới con người qua trung gian nước. Một khi đã ảnh hưởng tới nước trong thân thể con người, bất kì bức xạ nào cũng có thể thu được lối vào trong người đó. Nhiều công trình đang được thực hiện với nước, và nhiều điều huyền bí liên quan tới nước đang đi vào sự chú ý của con người.
Điều huyền bí lớn nhất về nước mà đã đi vào sự chú ý của các nhà khoa học trong mười năm qua là ở chỗ nước có nhiều tính nhạy cảm. Bất kì ảnh hưởng nào đang diễn ra từ bất kì hướng nào trong sự sống đầu tiên đều được cảm thấy bởi nước. Nước trong chúng ta là thứ đầu tiên bị ảnh hưởng. Một khi nước trong chúng ta bị ảnh hưởng, thế thì sẽ khó cho chúng ta tránh bị ảnh hưởng.
Bạn sẽ ngạc nhiên mà biết rằng khi đứa trẻ còn trong bụng mẹ, nó bơi hệt như nó đã ở trong đại dương. Nước trong đó đứa trẻ bơi trong bụng mẹ có cùng tỉ lệ muối như hiện diện trong đại dương. Bất kì ảnh hưởng nào đạt tới đứa trẻ từ trong bụng mẹ nó đều không đạt tới nó một cách trực tiếp; giữa người mẹ và đứa trẻ đang lớn trong bụng người mẹ không có kết nối trực tiếp. Nước là kẻ trung gian. Bất kì ảnh hưởng nào đạt tới đứa trẻ từ người mẹ đền thực hiện như vậy qua trung gian của nước; không có quan hệ trực tiếp. Thế thì trong suốt cuộc đời của chúng ta nước trong thân thể chúng ta hành xử hệt như nước trong biển.
Cá trong đại dương đã được nghiên cứu nhiều. Có cá lên bãi biển và đẻ trứng khi sóng triều đại dương đang rút xuống, khi biển đang rút ra. Cưỡi lên sóng, cá đi lên cát, đẻ trứng, và trở về với sóng đại dương. Vào thời gian cố định sóng đại dương quay lại. Đến lúc đó trứng sẽ vỡ ra và cá con sẽ chui ra. Thế rồi sóng tới sẽ đem cá con trở ra biển cả.
Những nhà khoa học nghiên cứu cá này đã rất ngạc nhiên, vì cá bao giờ cũng tới đẻ trứng vào giờ khi sóng triều rút xuống. Nếu chúng mà đẻ trứng khi sóng triều lên thế thì trứng chắc sẽ bị quét đi trong cơn lụt. Chúng đẻ trứng khi sóng triều rút xuống, và rút lui trong chút thời gian theo việc lui của sóng. Sóng không tràn lần thứ hai lên chỗ chúng đẻ trứng, bằng không sóng chắc đã quét sạch trứng đi.
Các nhà khoa học rất phân vân làm sao những con cá này biết khi nào sóng triều sẽ rút – khi nào thời gian cho sóng triều rút đi đã tới. Nếu như cho dù một sai lầm hơi chút thôi về thời gian, trứng chắc đã bị quét đi mất. Nhưng chúng không bao giờ phạm sai lầm trong hàng trăm nghìn năm. Nếu như chúng mà phạm sai lầm chúng chắc đã biến mất như một loài. Nhưng chúng không bao giờ phạm bất kì sai lầm nào. Những con cá này có trang thiết bị gì mà qua đó chúng có thể biết về sóng triều? Chúng có cơ quan giác quan nào cho chúng biết khi nào sóng triều sẽ rút? Cả trăm nghìn cá sẽ tụ tập cùng nhau vào một thời điểm trên toàn bộ bãi biển…. Phải có mã nào đó, cơ chế thông tin nào đó trong sở hữu của những con cá này. Cả trăm nghìn con cá sẽ tới từ hàng nghìn dặn xa xôi để đẻ trứng trên bãi biển đại dương – và tất cả đều vào cùng lúc.
Những người nghiên cứu hiện tượng này nói rằng ngoài trăng không thể có nguồn khác. Trăng là nguồn trực giác của cá, không cái gì khác. Chính là từ trực giác mà cá biết khi nào sóng triều lui và khi nào sóng triều tiến. Tác động của trăng là cách duy nhất, chúng không biết về sóng triều.
Có khả năng khác. Điều đã được phỏng đoán là những con cá này có thể bằng cách nào đó được thông báo bởi sóng biển. Cho nên các nhà khoa học để chúng vào một chỗ không có sóng biển: trong nước, trong phòng không đèn. Nhưng kết quả hoá ra là rất bất ngờ. Con cá đã được bao bọc trong bóng tối, trăng không có trong cái nhìn. Không ánh sáng nào được thấy chút nào, nhưng khi trăng đạt tới điểm đích xác mà với điều đó con cá trong đại dương sẽ đi và đẻ trứng trên bờ, tại đích xác cùng khoảnh khắc đó con cá trong phòng thí nghiệm đẻ trứng. Sự kiện này biểu lộ điều gì? Rằng vấn đề không phải là ở sóng đại dương.
Ai đó có thể nói rằng giống cá này chỉ bắt đầu khi loài này nhận được tín hiệu từ nhau, nhưng giả thuyết này cũng không thể đứng được. Các nhà khoa học đã chứng kiến con cá này khi chúng bị cô lập lẫn nhau. Họ đã thử quấy rối não của những con cá này theo đủ mọi cách. Họ đã đặt con cá này và bóng tối trong hai mươi bốn giờ để cho con cá này không biết khi nào là sáng và khi nào là đêm. Họ đã quan sát những con cá này sau khi đặt chúng dưới ánh sáng chói trong hai mươi tư giờ để cho con cá sẽ không biết khi nào đó là ngày. Họ đã quan sát chúng sau khi thiết lập trăng nhân tạo, và hàng ngày họ làm giảm hay tăng độ chói của nó. Nhưng những con cá này không thể bị lừa. Khi trăng thực tới điểm đúng, chỉ tại khoảnh khắc đó con cá này mới đẻ trứng. Dù chúng ở bất kì chỗ nào, chúng sẽ đẻ trứng vào khoảnh khắc đó.
Một trăm nghìn con chim hàng năm bay hàng trăm và hàng trăm dặm. Mùa đông sắp tới rồi và tuyết sẽ sớm rơi, cho nên chim bắt đầu bay đi khỏi khu vực tuyết sẽ rơi. Chúng sẽ dừng lại ở một chỗ cách xa hàng nghìn dặm. Để đi tới chỗ dừng mùa đông, cần hai tháng. Những con chim này khởi hành đích xác một tháng trước khi tuyết tới. Vào lúc khởi hành tuyết còn chưa bắt đầu rơi, nhưng sau đích xác một tháng nó sẽ rơi. Làm sao những con chim này tính được ngày nào tuyết sẽ rơi? Người dự báo thời tiết của chúng ta, người có những phòng thí nghiệm tinh vi nhất, không thể dự báo được thông tin chính xác thế. Tôi đã nghe nói rằng một số người dự báo thời tiết trước hết đi hỏi nhà chiêm tinh học ngồi ở vệ đường, “Ông nghĩ gì – hôm nay trời có mưa hay không?”
Những dàn xếp mà con người đã làm dường như chưa chín chắn. Chim biết một tháng rưỡi hay hai tháng trước khi tuyết rơi. Sau hàng nghìn thực nghiệm người ta đã quan sát rằng ngày chim bay được cố định cho mọi kiểu chim. Mọi năm ngày này thay đổi, vì không có ngày cố định để tuyết rơi. Nhưng điều chắc chắn là mọi con chim sẽ bay đi từ một tháng trước khi tuyết rơi. Nếu tuyết rơi mười ngày muộn hơn năm trước, thế thì chúng sẽ bay mười ngày muộn hơn. Nếu tuyết rơi mười ngày sớm hơn, chúng sẽ bay mười ngày sớm hơn. Nếu ngày của việc tuyết rơi đầu tiên là không chắc chắn, thế thì làm sao những con chim này được thông tin?
Ở Nhật Bản, có một con chim sẽ bay đi tránh khỏi thị trấn hai mươi bốn giờ trước khi động đất xuất hiện. Đó chỉ là một con chim thị trấn bình thường – trong mọi thị trấn có nhiều con trong chúng – nhưng hai mươi bốn giờ trước trận động đất những con chim này sẽ di cư khỏi thị trấn. Hiện tại, các nhà khoa học không có khả năng dự báo liệu động đất có tới không, thậm chí không dự báo được trước hai giờ. Hai giờ trước khi chúng hiện hữu vẫn là không chắc chắn, họ vẫn không chắc được. Chỉ có một xác suất, một khả năng, rằng động đất có thể xảy ra. Nhưng ở Nhật Bản, mọi người biết trước hai mươi tư giờ rằng động đất sắp tới. Từ bất kì thị trấn nào những con chim này bay đi, mọi người của thị trấn đó đều biết rằng giờ chỉ còn thời gian hai mươi tư tiếng đồng hồ. Con chim này đã đi ẩn cư; không một con nào của loài chim đó còn lại trong thị trấn. Làm sao con chim này trở nên được thông tin?
Trong mười năm nay, các nhà khoa học đã từng nói cái gì đó mới – rằng mọi sinh vật đều có cơ quan giác quan bên trong để cảm nhận thế giới bên ngoài. Có lẽ con người nữa cũng có điều đó, nhưng đã đánh mất nó qua việc phụ thuộc vào trí tuệ của mình. Con người là sinh linh duy nhất sống trong thế giới mà, qua khả năng hiểu biết, đã đánh mất nhiều thứ mà có thời con người đã có. Qua cùng khả năng hiểu biết sáng tạo con người cũng đã thu được nhiều thứ mà con người đã không có, nhưng với mất mát lớn. Điều con người có, con người đã đánh mất, điều con người không có, con người đã phát minh ra. Nhưng ngay cả các sinh vật nhỏ bé cũng có nguồn cảm nhận bên trong. Và bây giờ dữ liệu khoa học đang trở thành sẵn có mà chứng minh rằng nguồn bên trong như vậy là tồn tại. Khám phá này về nguồn bên trong làm cho chúng ta nhận biết rằng không cái gì sống động trên trái đất này là cô lập hay tách rời. Mọi thứ được nối với càn khôn. Nếu bất kì cái gì xảy ra ở bất kì chỗ nào, kết quả của nó sẽ bắt đầu được cảm thấy ở đây.
Tôi đã nói về Paracelsus…. Các nhà vật lí ngày nay cũng đang đi tới kết luận rằng khi các đốm nổi lên và tăng trưởng trên mặt trời, ốm bệnh trên trái đất tăng lên, và rằng khi các đốm mặt trời giảm đi, ốm bệnh trên trái đất cũng giảm đi. Chúng ta sẽ không bao giờ gạt bỏ được bệnh tật trên trái đất khi mà các đốm mặt trời còn kéo dài. Cứ mỗi mười một năm lại có rối loạn trên mặt trời và những vụ bùng nổ khổng lồ xảy ra. Khi các vụ nổ và rối loạn xuất hiện trên mặt trời, vào thời gian đó các cuộc chiến tranh và rối loạn xuất hiện trên trái đất. Chiến tranh xảy ra trên trái đất tuân theo trình tự mười năm. Dịch bệnh cũng đi theo trình tự mười hay mười một năm. Cách mạng cũng đi theo xấp xỉ trình tự quãng mười hay mười một năm.
Một khi bạn có ý tưởng rằng chúng ta không tách rời hay cô lập mà được nối cùng nhau theo cách có hệ thống, thế thì sẽ dễ hiểu chiêm tinh học. Đây là lí do tại sao tôi đang giải thích mọi điều này cho bạn.
Từ “Điều huyền bí ẩn kín”, Ch.5