Tirtha, chỗ hành hương linh thiêng, là phát minh duy nhất, rất sâu và biểu tượng, được nền văn minh cổ đại tạo ra. Nhưng nền văn minh hiện tại của chúng ta đã mất mọi tri thức về ý nghĩa của những chỗ như vậy. Ngày nay tới thăm chỗ hành hương chỉ là nghi lễ chết cho chúng ta. Chúng ta chỉ chấp nhận chúng, không biết tại sao các chỗ hành hương đã được lập ra, cái dụng của chúng là gì và ai đã làm ra chúng.
Bất kì cái gì có thể được thấy từ bề mặt đều không phải là mọi thứ. Có nghĩa ẩn kín nào đó mà là không thấy được từ bên ngoài. Chúng ta phải hiểu trước hết rằng nền văn minh của chúng ta đã đánh mất chủ định và nghĩa của chỗ hành hương linh thiêng và do vậy ngày nay những người đi hành hương chỉ làm phí thời gian của họ. Những người chống đối với ý tưởng này cũng làm phí thời gian của họ, dù họ có vẻ đúng thế nào, vì họ chẳng biết gì về những chỗ như vậy. Cả những người tới thăm chỗ hành hương không biết lẫn những người chống đối với ý tưởng này đều không biết chủ định của chúng, cho nên chúng ta hãy hiểu vài điều về chúng ….
Có một chỗ hành hương nổi tiếng cho người Jaina được biết là Samved Shikhar. Hai mươi hai trong số hai mươi tư tirthankaras của người Jaina đã chết ở đó, đã bỏ lại thân thể của họ ở đó. Điều đó dường như toàn đã được thu xếp từ trước; bằng không thì không thể có chuyện rằng trong số hai mươi bốn người, hai mươi hai người phải ngẫu nhiên chết, với một thời kì thời gian dài giữa họ, ở cùng một chỗ. Nếu chúng ta tin vào người Jaina, có kẽ hở một trăm nghìn năm giữa tirthankara thứ nhất và thứ hai mươi tư. Hai mươi hai người đó trong số họ đã chết ở cùng một chỗ là đáng nghĩ tới.
Chỗ hành hương cho người Hồi giáo là Kaaba. Mãi cho tới thời của Mohammed, đã có ba trăm sáu mươi nhăm tượng ở Kaaba – các tượng khác nhau cho từng ngày trong năm. Tất cả các tượng này đã bị bỏ đi hay bị phá huỷ, nhưng tảng đá trung tâm mà đã là trung tâm của đền thì không bị bỏ đi. Kaaba là cổ đại hơn tôn giáo của Hồi giáo. Lịch sử của Hồi giáo mới chỉ quãng một nghìn bốn trăm năm, nhưng tảng đá đen đó ở Kaaba có hàng trăm nghìn năm tuổi.
Sự kiện thú vị khác là ở chỗ tảng đá này dường như không thuộc vào trái đất của chúng ta. Làm sao nó đã tới trái đất? Giả thuyết duy nhất chúng ta có là ở chỗ nó là một phần của thiên thạch. Trong vòng hai mươi bốn giờ của việc tan rã của thiên thạch, hàng nghìn mảnh đá rơi xuống đất. Nhiều mảnh trong số này bị bốc cháy trước khi chúng tới đất. Ban đêm khi chúng ta thấy sao băng – đây không phải là sao mà là thiên thạch. Đôi khi thậm chí những tảng đá khổng lồ lao tới trái đất; những tảng đá này có thành phần khác. Tảng đá ở Kaaba là tảng đá như vậy.
Nhưng một số người đã đi sâu hơn vào trong cảm giác này rằng tảng đá lớn như thế có thể đã được mang tới trái đất và bị bỏ lại ở đây, như các phi hành gia của chúng ta đã để lại vài thứ từ trái đất trên mặt trăng. Bất kì cái gì các phi hành gia đã bỏ lại trên mặt trăng sẽ còn lại ở đó một cách an toàn, cho dù có chiến tranh hạt nhân và sự sống trên trái đất này bị phá huỷ. Nếu bao giờ nền văn minh nào đó lên tới mặt trăng, họ sẽ rất ngạc nhiên khi thấy những thứ này mà chúng ta đã bỏ lại ở đó.
Cho nên tảng đá ở Kaaba có thể không phải là một phần của thiên thạch mà có thể đã được bỏ lại bởi cư dân nào đó của hành tinh khác. Có lẽ đã có thời có thể thiết lập kết nối với những cư dân đó qua trung gian của tảng đá đó. Nhưng bây giờ, chỉ việc tôn thờ nó còn lại. Khoa học về cách nó có thể đã được dùng như phương tiện liên lạc bị mất.
Một con tầu không gian không người lái của Nga đã trở nên bị mất vì liên lạc radio của nó với trái đất bị ngắt, cho nên không thể nào dõi vết được nó. Liệu nó đã bị bốc cháy, bị phá huỷ, hay nó vẫn ở đâu đó trong không gian không ai biết. Nhưng nếu nó đã hạ xuống hành tinh nào đó, và nếu cư dân của hành tinh đó có thể sửa lại radio họ có thể thiết lập lại liên hệ với trái đất. Ngoài ra họ có thể phá nó ra, hay giữ nó trong bảo tàng của họ. Họ thậm chí có thể sợ nó, có thể ngạc nhiên về nó hay họ thậm chí có thể bắt đầu tôn thờ nó. Tảng đá Kaaba có thể là một công cụ như vậy được gửi tới bởi người không gian từ hành tinh nào đó khác để thiết lập liên hệ với trái đất.
Tôi đang nói cho bạn điều này chỉ như minh hoạ cho việc giải thích rằng chỗ hành hương linh thiêng đã là phương tiện để thiết lập liên hệ, không với bất kì người sống nào trong không gian nhưng với những linh hồn chứng ngộ, người có thời đã sống trên trái đất này.
Một thực nghiệm rất sâu và mạnh mẽ ở Samved Shikhar đã được tiến hành bởi hai mươi hai tirthankaras, ngay khi họ rời khỏi thân thể của họ. Trên núi đó họ đã cố làm mãnh liệt và nhân lên các rung động của tâm thức đã được phát triển của họ để cho sẽ dễ dàng hơn cho chúng ta liên lạc với họ. Điều được nghĩ tới là nếu nhiều linh hồn với tâm thức như vậy rời bỏ thân thể của họ từ cùng một chỗ, con đường giữa chỗ đó và bình diện khác có thể được đặt ra. Và con đường như vậy đã tồn tại.
Mưa rào không phải là như nhau ở mọi nơi trên trái đất: có một số khu vực mưa nặng hạt, nơi mưa tới hơn 12,1 mét, và khu vực sa mạc nơi không có mưa hay rất hiếm mưa. Tương tự có những chỗ rất lạnh, nơi không có gì ngoài tuyết ở mọi nơi; và có những khu vực nóng tới mức khó mà làm ra băng. Theo cùng cách này trên trái đất có những chỗ với tâm thức mật độ cao và tâm thức mật độ thấp. Những nỗ lực có ý thức đã được tiến hành để tạo ra các khu vực tâm thức cao, các trường được tích năng lượng bởi ý thức con người. Chúng không xảy ra một cách tự động, nhưng là kết quả của tâm thức của những cá nhân mạnh mẽ.
Hai mươi hai tirthankaras du hành tới một núi đó, đi vào samadhi và bỏ lại thân thể của họ ở đó, đã tạo ra một trường tâm thức tích năng lượng cao, theo một nghĩa đặc biệt nào đó, tại Samved Shikhar. Điều được dự định là nếu ai đó ngồi ở đó, tụng mật chú đặc biệt được trao bởi hai mươi hai tirthankaras đó, cuộc hành trình của người đó trong trải nghiệm ngoài thân thể sẽ lập tức bắt đầu. Đây là thực nghiệm khoa học như bất kì thực nghiệm nào xảy ra trong phòng thí nghiệm.
Lí do duy nhất để tạo ra các chỗ hành hương là để thực nghiệm với việc tạo ra các trường tích năng lượng ý thức mạnh mẽ, để cho bất kì người nào cũng có thể dễ dàng bắt đầu cuộc hành trình bên trong của mình.
Có hai phương pháp làm cho thuyền chuyển động. Một phương pháp là giương buồm vào đúng lúc theo hướng gió và không dùng mái chèo; phương pháp kia là không giương buồm, nhưng giúp cho thuyền di chuyển bằng việc dùng mái chèo. Các chỗ hành hương là những chỗ mà luồng tâm thức đang chảy một cách tự động: bạn chỉ phải đứng ở giữa luồng nơi cánh buồm tâm thức của bạn dương lên và bạn bắt đầu cuộc hành trình đi tiếp của bạn. Bạn sẽ có khả năng du hành xa dễ dàng và nhanh hơn nhiều ở những chỗ như vậy, hơn bất kì chỗ nào khác, và một mình. Ở mọi chỗ khác, bạn có thể không chủ ý nhưng đi tới chỗ tiêu cực nào đó và việc giương buồm của bạn sẽ đi theo hướng sai: bạn có thể đi xa hơn khỏi đích đến của bạn và trở nên bị lạc.
Chẳng hạn, nếu bạn đang ngồi thiền ở một chỗ đầy những cảm xúc tiêu cực – nơi các ông hàng thịt đang giết con vật cả ngày – sẽ có vật lộn và xung đột lớn trong tâm trí bạn. Trong thiền bạn trở nên rất cảm nhận, mở và mong manh, cho nên bất kì cái gì đang xảy ra quanh bạn vào lúc đó đều đi vào bạn. Cho nên khi bạn thiền điều bao giờ cũng cần thiết là chọn chỗ mà sẽ không đưa bạn theo hướng sai. Bất kì khi nào, trong khi thiền, bạn có những ý nghĩ rối beng hay thấy khó im lặng, đi khỏi chỗ đó đi.
Bạn có thể ngồi thiền trong nhà tù nữa, nhưng điều đó yêu cầu tính cá nhân rất mạnh. Có những phương pháp khác nhau để giúp bạn thiền trong tù: bạn tạo ra đường phân ranh qua đó các lực tiêu cực không thể vào.
Nhưng trong một tirtha, chỗ hành hương linh thiêng, đường như vậy là không cần thiết. Ở chỗ như vậy bạn bỏ mọi chống cự và mở mọi cửa ra vào và cửa sổ của bạn. Ở đó, năng lượng tích cực chảy thừa thãi. Hàng trăm người đã du hành vào trong cái không biết từ đó và đã tạo ra con đường. Dường như họ đã làm ra con đường bằng việc chặt cây và loại bỏ các bụi cây chắn đường, để cho những người bước đằng sau họ thấy dễ đi hơn. Trên con đường tôn giáo, nỗ lực được thực hiện bởi tâm thức mạnh hơn, cao hơn để giúp những người yếu hơn, theo mọi cách. Chỗ hành hương là một thực nghiệm như vậy.
Chỗ hành hương là nơi dòng chảy đang tuôn chảy từ thân hướng tới hồn, nơi toàn thể bầu không khí được nạp năng lượng; từ nơi những người đã đạt tới samadhi, từ nơi những người đã nhận ra chứng ngộ của họ. Những chỗ như vậy đã trở nên được tích năng lượng một cách đặc biệt. Ở những chỗ như vậy, nếu bạn chỉ giương buồm của bạn, không làm bất kì cái gì khác, cuộc hành trình của bạn sẽ bắt đầu.
Cho nên mọi tôn giáo đều đã thiết lập chỗ hành hương của họ. Ngay cả những tôn giáo chống đền thờ cũng đã làm điều đó. Điều ngạc nhiên là các tôn giáo đã chống lại tôn thờ tượng và đền đều đã thiết lập các chỗ hành hương. Dễ dàng bỏ tượng, nhưng chỗ hành hương không thể bị bỏ đi được vì những chỗ như vậy có giá trị mà không tôn giáo nào có thể đối kháng hay phủ nhận.
Người Jaina về căn bản không phải là người tôn thờ tượng, người Mô ha mét giáo lẫn người Sikh lẫn Phật tử cũng không là người tôn thờ; ban đầu các Phật tử đã không là người tôn thờ tượng chút nào. Nhưng tất cả họ đã lập ra chỗ hành hương linh thiêng của họ. Họ phải làm vậy. Không có những chỗ như vậy không có nghĩa cho tôn giáo. Nếu không có những chỗ như vậy, mọi thứ chắc phải được làm bởi cá nhân, và trong trường hợp đó chắc sẽ không có nghĩa hay chủ định trong tâm xã tôn giáo.
Từ tirtha ngụ ý một loại bàn nhảy từ đó người ta có thể lấy việc chìm vào trong đại dương vô hạn. Từ của người Jaina tirthankara nghĩa là người tạo ra tirtha, tạo ra chỗ hành hương. Một người chỉ có thể được gọi là tirthankara nếu người đó đã tích năng lượng cho một khu vực mà trong đó người thường có thể đi vào, mở bản thân họ và bắt đầu việc tìm kiếm bên trong của họ. Người Jaina gọi họ không phải là hoá thân mà là tirthankara. Tirthankara là hiện tượng vĩ đại hơn hoá thân, vì nếu điều thiêng liêng đi vào dưới hình thể người điều đó là tốt, nhưng nếu một người làm ra một chỗ cho người khác đi vào điều thiêng liêng, điều đó là biến cố cao hơn nhiều.
Jaina giáo không tin vào thượng đế, nó tin vào tiềm năng của con người. Đó là lí do tại sao người Jaina có thể được lợi sâu sắc hơn nhiều từ tirtha và các tirthankara hơn là những người đi theo bất kì tôn giáo nào khác. Trong tôn giáo của người Jaina không có khái niệm về “ân huệ của Thượng đế” hay “từ bi của Thượng đế.” Người Jaina nghĩ rằng Thượng đế không thể cho bất kì giúp đỡ nào; người tìm kiếm là một mình và phải du hành bằng nỗ lực và năng lượng riêng của mình.
Nhưng thế rồi có hai cách theo đó người đó có thể du hành. Cách thứ nhất, mọi người phải du hành trong chiếc thuyền riêng của mình, với sức mạnh của đôi tay riêng của mình, dùng mái chèo. Một trong nhiều người có thể thành công. Nhưng trên con đường thứ hai bạn có thể nhận giúp đỡ của gió và giương buồm lên để cho bạn có thể du hành nhanh hơn và dễ dàng hơn.
Nhưng ‘gió tâm linh” như vậy có sẵn có không? Đây là toàn thể chủ định của chỗ hành hương.
Liệu có thể rằng khi một người như Mahavira có đó, khắp quanh ông ấy, từ hướng không biết nào đó, luồng năng lượng bắt đầu chảy không? Ông ấy có thể tạo ra luồng năng lượng theo hướng đặc biệt nào đó để cho nếu bất kì người nào đi vào trong dòng chảy đó, người đó sẽ được mang đi bởi nó và sẽ đạt tới định mệnh chung cuộc của người đó không?
Thực ra, việc tuôn chảy này theo hướng tâm linh là cuộc hành hương linh thiêng.
Có những chỉ dẫn vật lí về những chỗ hành hương như vậy, nhưng khi thời gian trôi qua, những dấu hiệu đó có thể biến mất. Cho nên chúng phải được bảo vệ bởi việc xây dựng đền hay dựng những tượng khổng lồ để cho dấu chân của những người thấy vĩ đại đó có thể được bảo tồn. Chăm nom kĩ càng phải được tiến hành để cho những chỗ đó không dịch chuyển cho dù một li từ nơi biến cố này đã xảy ra lúc nào đó trong quá khứ.
Những kho báu lớn đã được ẩn kín ngầm dưới đất theo đó việc tìm kiếm diễn ra ngay cả ngày nay. Chẳng hạn, kho báu phong phú nhất trên trái đất, vì nó mà việc tìm kiếm vẫn diễn ra – đó là kho báu của sa hoàng cuối cùng của Nga – đã bị chôn vùi đâu đó ở Mĩ. Điều chắc chắn là kho báu như vậy đã bị giấu kín ở đó vì sa hoàng bị truất ngôi năm 1917, không lâu trước đó. Trên bản đồ, vị trí đích xác là sẵn có, nhưng mô tả không thể được giải mã. Tương tự kho báu giấu kín của gia đình vua Gwalior đang ở đâu đó tại Gwalior. Có bản đồ, nhưng vị trí đích xác không thể được giải mã. Những bản đồ như vậy được làm theo mã bí mật, bằng không chúng có thể rơi vào nhưng bàn tay sai.
Tương tự chỗ hành hương được chỉ dẫn kĩ, nhưng chỗ đích xác nơi biến cố tâm linh đã xảy ra có thể không được biết tới. Những chỗ như vậy bị giấu kín với người thường. Điều này là rất lộn xộn. Bạn có thể đi tới chỗ nào đó nơi người ta nói Mahavira đã đạt tới niết bàn, nhưng có khả năng lớn là chỗ đích xác lại hơi xa khỏi chỗ được chỉ cho mọi người. Vị trí thực được chỉ ra chỉ dành cho những người tìm kiếm đích thực và xứng đáng. Ở đó, những người đó có thể cúi lạy trong kính trọng và về nhà. Vị trí thực sẽ được giữ ẩn kín cho những người tới đó từ việc tìm kiếm tâm linh đích thực và người cần sự giúp đỡ đó cho cú nhảy.
Có nhiều chỗ như vậy…. Ở một nước A rập có một làng nhỏ tên là Alkufa nơi không người văn minh nào đã từng có khả năng vào. Chúng ta đã đi lên mặt trăng, nhưng không lữ khách nào đã đi vào làng nhỏ đó. Mãi cho tới nay đã không thể nào định vị được làng này. Không có hoài nghi gì về sự tồn tại của nó, vì lịch sử nhắc tới nó và cũng có bản đồ sẵn có. Vị trí bị giấu kín với chủ định đặc biệt. Khi người Sufi nào đó đạt tới trạng thái tâm thức sâu trong thiền, người đó tìm ra chìa khoá cho con đường này; người đó có khả năng quán tưởng toàn thể Alkufa. Ngoài ra, bất kì bản đồ nào sẵn có đều là giả, dẫn sai đường mọi người.
Nhiều người hành hương từ châu Âu đã thử đi tới Alkufa trong ba thế kỉ vừa rồi. Nhiều người trong số họ đã chết trước khi họ có thể quay về. Những người đã quay về, đã không tới được làng này nhưng đã chỉ lang thang xung quanh. Người ta có thể đạt tới chỉ qua việc thiền đặc biệt, trong đó Alkufa trở nên hiển lộ. Một khi người đó thấy chỗ này người đó bắt được thoáng nhìn trong thiền mà thiền nhân Sufi nói tới nó. Alkufa là chỗ linh thiêng bí mật, cổ đại hơn Hồi giáo. Các chỗ hành hương nổi tiếng và có thể được tới thăm bởi bất kì người hành hương nào không phải là chỗ thực; chỗ thực là ở gần bên, nhưng được ẩn kín.
Một sự vụ thú vị đã xảy ra…. Vinoba Bhave, đại đệ tử của Gandhi, đi tới đền Vishwanath ở Benares. Với những người harijans – đẳng cấp thấp nhất của Ấn Độ – Karpatriji, một học giả Brahmin chính thống, đã nói, “Ông có thể vào, nhưng bây giờ chúng tôi sẽ phải làm đền khác, vì đền này đã bị mạo phạm.” Ông ấy thực tại bắt đầu xây dựng đền khác, vì với ông ấy đền cũ đã trở thành vô dụng. Trên bề mặt, Vinoba dường như là người hiểu biết hơn Karpatri. Karpatri là người rất truyền thống và dốt nát về các xu hướng và tri thức của thế giới hiện đại. Nhưng liên quan tới bí mật sâu mà ông ấy đã cố hỗ trợ, ông ấy dường như là thông thái hơn.
Sự thực là ở chỗ đền Vishwanath không phải là đền thực, và đền mà Karpatri muốn xây dựng thay cho nó, chắc cũng sẽ không là đền thực. Đền thực là đền thứ ba, cái phải được giữ kín, bằng không bất kì nhà cải cách xã hội tôn giáo nào chắc sẽ mạo phạm nó. Đền Vishwanath mà bây giờ đang đứng đó đã là mạo phạm rồi. Không có khó khăn gì trong việc mạo phạm đền; bạn có thể mạo phạm nếu bạn muốn. Bất kì đền khác nào được xây dựng ra bao giờ cũng sẽ là giả, nhưng đền giả bao giờ cũng phải có đó để cho đền thực có thể được ẩn kín.
Có những chìa khoá bí mật, những mật chú, qua đó đi vào đền Vishwanath, cũng như có mật chú cho Alkufa. Thỉnh thoảng, người tìm kiếm may mắn nào đó, người có tri thức về mật chú này, có thể có khả năng đi vào, nhưng những người hành hương khác đi tới đền giả, tôn thờ ở đó và trở về nhà họ. Nhưng đền này đã phát triển một loại bất khả xâm phạm nào đó qua hàng nghìn năm, cho dù nó là giả, vì mọi người đã tin nó là đền thực lâu thế.
Mọi tôn giáo đã thử không cho phép người của tôn giáo khác vào đền của họ hay chỗ hành hương của họ. Tại sao? Những người đã làm ra các qui tắc đó đã biết những nguy hiểm cho những người mới vào như vậy. Theo một cách nào đó, nó giống như cáo thị trên trên lối vào phòng thí nghiệm năng lượng nguyên tử, cảnh báo, “Không được vào trừ các nhà khoa học nguyên tử.” Chúng ta đồng ý rằng những hạn chế như vậy là cần thiết – nó là nguy hiểm cho những người không phải là nhà khoa học đi vào – nhưng khi những hạn chế như vậy được làm liên quan tới đền hay chỗ hành hương, chúng ta không đồng ý. Chúng ta không biết rằng chúng cũng có khoa học riêng của chúng. Những đền này và những chỗ hành hương được ngụ ý cho những người chuyên môn.
Điều đó giống như cuộc họp của các bác sĩ đang đứng quanh bệnh nhân thảo luận về bệnh của người đó. Bệnh nhân nghe họ nhưng không thể hiểu được họ vì họ đang nói lối nói y học, dùng từ Hi Lạp và Latin. Việc hiểu không phải là mối quan tâm của bệnh nhân. Tương tự, mọi tôn giáo đã phát triển ngôn ngữ mã riêng của họ. Họ có những chỗ linh thiêng bí mật, ngôn ngữ bí mật, và kinh sách bí mật. Cho nên điều chúng ta hiểu là chỗ hành hương gần như chắc chắn không phải là chỗ thực. Những truyền thống lớn như vậy phải được bảo tồn vì nếu chúng rơi vào trong những bàn tay sai, chúng có thể bị lạm dụng. Người thường sẽ chỉ lâm vào khó khăn và sẽ không được ích lợi gì từ chúng.
Người ta nói rằng nếu bạn được phép vào làng Sufi của Alkufa bạn sẽ trở nên điên. Người ta nói rằng bất kì người nào tình cờ đi vào sẽ rời khỏi làng này, bị điên, vì Alkufa đầy những rung động mà không thể chịu được bởi tâm trí bình thường. Cho nên tốt hơn cả là không vào nơi này nếu không có chuẩn bị và kỉ luật cần thiết.
Người ta nói rằng không thể nào ngủ được ở Alkufa, cho nên điều tự nhiên là những người đã không thực nghiệm sâu trong việc duy trì thức tỉnh sẽ phát điên. Thành tựu vĩ đại nhất trong những người Sufis là thức đêm; họ giữ thức cả đêm. Nếu một người không ăn trong chín mươi ngày người đó sẽ trở nên rất yếu, nhưng người đó sẽ không chết hay phát điên. Người mạnh khoẻ bình thương có thể dễ dàng nhịn ăn trong chín mươi ngày, nhưng người đó không thể còn như cũ nếu không ngủ trong cho dù hai mươi mốt ngày. Người đó có thể còn thế nếu không có thức ăn trong ba tháng, nhưng người đó không thể còn thế mà không ngủ trong ba tuần. Ba tuần là thời gian rất dài – khó vẫn còn như cũ mà không ngủ cho dù một tuần – nhưng không thể ngủ được chút nào ở Alkufa.
Một khất sĩ Phật giáo được gửi tới tôi bởi ai đó từ Sri Lanka. Trong ba năm khất sĩ này đã không có khả năng ngủ thích đáng. Toàn thể thời gian tay và chân anh ta đều run, anh ta liên tục vã mồ hôi và anh ta rất rối trí. Anh ta sợ ngay cả đi một bước – anh ta đã mất mọi tự tin vào bản thân mình. Anh ta gần như bị loạn trí. Thuốc ngủ mạnh không thể giúp được anh ta ngủ, nhưng chỉ nằm đó, phờ phạc; bên trong anh ta vẫn thức.
Tôi hỏi anh có bao giờ tập luyện yoga anapansati của Phật không, vì với một khất sĩ Phật giáo tập luyện này là không thể tránh khỏi. Anh ta nói anh ta có tập. Thế là tôi bảo anh ta rằng anh ta nên bỏ ý tưởng về có được bất kì việc ngủ nào, vì yoga anapansati là tập luyện làm cho việc ngủ thành không thể được. Nhưng điều đó chỉ là bước khởi đầu trong việc tập luyện; một khi không thể ngủ được, có tập luyện khác phải lập tức được trao cho. Nếu bạn liên tục làm chỉ phần thứ nhất mà không có bước thứ hai này, bạn sẽ trở nên yếu; bạn thậm chí có thể trở nên điên và chết.
Một khi giấc ngủ bị phá huỷ từ bên trong, phẩm chất của tâm thức của bạn thay đổi nhiều tới mức thế thì tiến bộ thêm có thể được thực hiện. Khi tôi hỏi khất sĩ này liệu anh ta có biết pha thứ hai của tập luyện đó không, anh ta nói chẳng ai đã bảo cho anh ta về điều đó. Phần thứ hai không được nhắc tới trong bất kì sách nào, và việc viết về chỉ phần thứ nhất là nguy hiểm vì bất kì người nào đi theo nó sẽ không thể nào ngủ được. Đây đã là lí do tại sao mọi thứ được giữ giấu kín, để cho chúng sẽ không gây hại cho bất kì người nào. Chúng đã được ngụ ý để hướng dẫn cho những người cần giúp đỡ trong việc tìm kiếm tâm linh của họ.
Đây là lí do tại sao các chỗ hành hương là cần thiết, nhưng chỗ thực được giữ giấu kín. Các chỗ giả được tạo ra để giữ bạn tránh xa đường mòn cho tới thời gian mà bạn sẵn sàng cho chỗ thực. Không người sai nào sẽ đạt tới chỗ đích thực, nhưng người đúng bao giờ cũng sẽ tìm thấy nó.
Mọi chỗ hành hương có chìa khoá riêng của nó. Nếu bạn muốn tìm ra chỗ hành hương của người Sufi, bạn sẽ không có khả năng tìm với chìa khoá của người Jaina, và chỗ hành hương của người Jaina không thể được tìm thấy bằng việc dùng chìa khoá của người Sufi. Mọi tôn giáo có chìa khoá riêng của nó. Tôi không muốn đặt tên nó, nhưng tôi sẽ nói cho bạn về chìa khoá của một chỗ hành hương.
Người Tây Tạng có biểu đồ huyền bí đặc biệt hay mật hình. Đây là chìa khoá. Người Hindu cũng có những công cụ như vậy, hàng nghìn chiếc. Trong nhà của họ, họ viết các từ như “Labha-Shubha” – “Thịnh vượng và Thiện lành” – và họ viết các số nào đó bên dưới, mà không biết tại sao họ làm điều đó. Trong nhà của họ có một số mật hình như vậy, điều có thể là chìa khoá tới một chỗ hành hương. Họ không có ý tưởng nào về họ đã viết cái gì, nhưng họ liên tục làm điều đó chỉ bởi vì ông cha họ đã làm nó.
Mọi hình được tạo ra bên ngoài đều tạo ra hình bên trong tâm thức bạn. Chẳng hạn, nếu bạn cứ nhìn chăm chăm vào cửa sổ trong vài phút và thế rồi nhắm mắt lại, bạn sẽ thấy dấu vết âm bản của khung cửa sổ. Tương tự, nếu bạn tập trung có tính thiền vào công cụ nào đó, bạn sẽ tạo ra bên trong tâm trí bạn một dấu vết âm bản của hình đặc biệt của nó hay các chữ số của nó. Những điều này có thể được thấy bên trong sau các tập luyện thiền đặc biệt nào đó. Nếu bạn có thể gợi lên những hình ảnh này, thế thì vào những khoảnh khắc như vậy bạn có thể lập tức bắt đầu cuộc hành hương của bạn vào trong tâm linh.
Từ “Điều huyền bí ẩn kín”, Ch.2