Chuyển từ thể vật lí sang thể ê te

Ê te ngụ ý cái có liên quan tới bầu trời và với không gian. Vi diệu ngụ ý cái nhỏ bé nhất, sukshma, cái cuối cùng, nguyên tử, cái mà vật chất dừng tồn tại. Với tâm trí không có khó khăn. Với tâm linh không có khó khăn. Với càn khôn nữa cũng không có khó khăn.

Thế rồi bạn đi tới thể thứ bẩy, thể niết bàn. Niết bàn ngụ ý việc dừng toàn bộ, trống rỗng tuyệt đối. Thậm chí không hạt mầm nào tồn tại bây giờ; mọi thứ đã dừng lại. Về mặt ngôn ngữ từ này ngụ ý việc tắt ngóm ngọn lửa. Ngọn lửa đã mất đi; ánh sáng bị tắt đi. Thế thì bạn không thể hỏi nó đã đi đâu. Nó đã chỉ dừng hiện hữu.

Niết bàn ngụ ý ngọn lửa đã mất đi. Bây giờ nó không ở đâu cả, hay ở mọi nơi. Nó không có điểm tồn tại đặc biệt hay không có thời gian hay khoảnh khắc tồn tại đặc biệt. Bây giờ nó là bản thân không gian, bản thân thời gian. Nó là sự tồn tại hoặc vô tồn tại; điều đó không tạo ra khác biệt. Vì nó ở mọi nơi, bạn có thể dùng thuật ngữ nào cũng được. Nếu nó ở đâu đó nó không thể ở mọi nơi, và nếu nó ở mọi nơi nó không thể ở đâu đó, cho nên ở đây bây giờ và mọi nơi ngụ ý cùng một điều. Cho nên với thể thứ bẩy bạn sẽ phải dùng ‘niết bàn’, vì không có từ tốt hơn cho nó.

Từ trong bản thân chúng không có nghĩa chút nào. Chỉ kinh nghiệm có nghĩa. Chỉ nếu bạn đã trải nghiệm cái gì đó của bẩy thể này, điều đó sẽ có nghĩa cho bạn. Để giúp bạn, có những phương pháp khác nhau được dùng ở từng bình diện.

Bắt đầu từ vật lí. Thế thì mọi bước khác mở ra cho bạn. Khoảnh khắc bạn làm việc trên thể thứ nhất, bạn có thoáng nhìn về thể thứ hai. Cho nên bắt đầu từ vật lí đi. Nhận biết về nó từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc đi. Và không chỉ nhận biết ra bên ngoài. Bạn có thể trở nên nhận biết về thân thể của bạn từ bên trong nữa. Tôi có thể trở nên nhận biết về tay tôi như tôi đã nhìn nó từ bên ngoài, nhưng có việc cảm bên trong về nó nữa. Khi tôi nhắm mắt lại tay không được nhìn thấy, nhưng vẫn có việc cảm bên trong về cái gì đó đang có đó. Cho nên không nhận biết về thân thể bạn như  được thấy từ bên ngoài. Điều này không thể dẫn bạn vào bên trong. Việc cảm bên trong là hoàn toàn khác.

Khi bạn cảm thân thể từ bên trong, lần đầu tiên bạn sẽ biết cái gì có đó ở bên trong thân thể. Khi bạn nhìn nó chỉ từ bên ngoài bạn không thể biết được các bí mật của nó. Bạn chỉ biết các biên giới bên ngoài, cách nó được nhìn từ người khác. Nếu tôi nhìn thân thể tôi từ bên ngoài, tôi thấy nó như cách nó được nhìn từ người khác, nhưng tôi đã không biết nó như nó dành cho tôi. Bạn có thể thấy tay tôi từ bên ngoài và tôi có thể thấy nó. Nó là cái gì đó mang tính đối thể. Bạn có thể chia sẻ tri thức về nó với tôi. Nhưng tay tôi, được nhìn theo cách đó, không phải là được biết từ bên trong. Nó đã trở thành thuộc tính công khai. Bạn có thể biết nó như tôi biết vậy.

Duy nhất khoảnh khắc tôi thấy nó từ bên trong thì nó mới trở thành là của tôi theo cách không thể chia sẻ được. Bạn không thể biết được nó; bạn không thể biết được cách tôi cảm thấy nó từ bên trong. Duy nhất tôi có thể biết nó. Thân thể được biết với chúng ta không phải là thân thể của chúng ta. Nó là thân thể được biết một cách đối thể cho mọi người, thân thể mà bác sĩ trị liệu có thể biết trong phòng thí nghiệm. Nó không phải là thân thể đang hiện hữu. Duy nhất việc biết cá nhân, riêng tư có thể dẫn bạn vào bên trong; tri thức công khai không thể dẫn được. Đó là lí do tại sao sinh lí học hay tâm lí học, cái là những quan sát từ bên ngoài, đã không dẫn tới tri thức về các thể bên trong của chúng ta. Họ biết chỉ mỗi thể vật lí.

Cho nên nhiều điều khó xử đã được tạo ra bởi điều này. Một người có thể cảm thấy đẹp từ bên trong, nhưng chúng ta có thể ép buộc người đó tin rằng người đó là xấu. Nếu chúng ta đồng ý tập thể về điều đó, người đó có thể cũng đi tới đồng ý. Nhưng không người nào cảm thấy xấu bên trong. Việc cảm bên trong bao giờ cũng là về đẹp.

Việc cảm bên ngoài này không thực là việc cảm chút nào. Nó chỉ là phong cách thời thượng, tiêu chí bị áp đặt từ bên ngoài. Một người là đẹp trong xã hội này có thể là xấu trong xã hội khác; một người là đẹp trong thời kì lịch sử này có thể không là đẹp trong thời kì lịch sử khác. Nhưng việc cảm bên trong nhất bao giờ cũng là về đẹp, cho nên nếu như không có tiêu chí bên ngoài chắc đã không có xấu. Chúng ta có hình ảnh cố định về đẹp mà mọi người có chung. Đó là lí do tại sao có cái xấu và cái đẹp, bằng không thì không có. Nếu tất cả chúng ta đều trở nên mù, không ai sẽ là xấu. Mọi người sẽ là đẹp.

Cho nên việc cảm về thân thể từ bên trong là bước đầu tiên. Trong những tình huống khác nhau thân thể sẽ cảm thấy khác từ bên trong. Khi bạn đang trong yêu, bạn có việc cảm bên trong đặc biệt; khi bạn trải nghiệm ghét, việc cảm bên trong là khác. Nếu bạn hỏi Phật ông ấy sẽ nói, “Yêu là đẹp,” vì trong việc cảm bên trong của ông ấy, ông ấy biết rằng khi ông ấy yêu, ông ấy là đẹp. Khi có hận, giận, ghen, cái gì đó xảy ra bên trong làm cho bạn bắt đầu cảm thấy xấu. Cho nên bạn sẽ cảm thấy bản thân bạn là khác trong những tình huống khác nhau, trong những khoảnh khắc khác nhau, trong những trạng thái tâm trí khác nhau.

Khi bạn đang cảm thấy lười nhác, có khác biệt với khi bạn đang cảm thấy hoạt động. Khi bạn buồn ngủ, có khác biệt. Những khác biệt này phải được biết một cách phân biệt. Chỉ thế thì bạn mới trở nên quen thuộc với sự sống bên trong của thân thể bạn. Thế thì bạn biết lịch sử bên trong, địa lí bên trong của bản thân bạn trong thời thơ ấu, thời thanh niên, trong tuổi già.

Khoảnh khắc người ta trở nên nhận biết về thân thể của mình từ bên trong, thể thứ hai tự động lọt vào cái nhìn. Thể thứ hai này sẽ được biết từ bên bên ngoài bây giờ. Nếu bạn biết thể thứ nhất từ bên trong, thế thì bạn sẽ trở nên nhận biết về thể thứ hai từ bên ngoài.

Từ bên ngoài thể thứ nhất bạn không bao giờ có thể biết được thể thứ hai, nhưng từ bên trong nó bạn có thể thấy cái bên ngoài của thể thứ hai. Mọi thể đều có hai chiều: cái bên ngoài và cái bên trong. Cũng như tường có hai phía – một phía nhìn ra ngoài và phía kia nhìn vào trong – mọi thể đều có biên giới, tường. Khi bạn đi tới biết thể thứ nhất từ bên trong, bạn trở nên nhận biết về thể thứ hai từ bên ngoài.

Bây giờ bạn ở giữa: bên trong thể thứ nhất và bên ngoài thể thứ hai. Thế thứ hai này, thể ê te, giống như khói dầy đặc. Bạn có thể đi qua nó mà không có bất kì cản trở nào, nhưng nó không trong suốt; bạn không thể nhìn vào trong nó từ bên ngoài. Thế thứ nhất là rắn chắc. Thế thứ hai cũng giống như thể thứ nhất khi có liên quan tới hình dáng, nhưng nó không rắn chắc.

Khi thể thứ nhất chết, thể thứ hai vẫn còn sống trong mười ba ngày. Nó du hành cùng bạn. Thế rồi, sau mười ba ngày, nó nữa cũng chết. Nó tan tác, bay hơi. Nếu bạn đi tới biết thể thứ hai trong khi thể thứ nhất còn sống, bạn có thể nhận biết về việc xảy ra này.

Thể thứ hai có thể đi ra khỏi thân thể bạn. Đôi khi trong thiền thể thứ hai này đi lên hay xuống, và bạn có cảm giác rằng sức hút không còn kéo bạn xuống; bạn đã rời khỏi đất. Nhưng khi bạn mở mắt ra, bạn vẫn đang trên đất, và bạn biết rằng bạn đã ở đó mọi lúc. Việc cảm này tới với bạn, rằng bạn đã vươn lên, vì thể thứ hai, không vì thế thứ nhất. Trong thể thứ hai không có sức hút, cho nên khoảnh khắc bạn biết thể thứ hai bạn cảm thấy tự do nào đó, cái không được biết tới cho thể vật lí. Bây giờ bạn có thể đi ra ngoài thân thể bạn và quay lại.

Đây là bước thứ hai nếu bạn muốn biết các kinh nghiệm của thể thứ hai của bạn. Và phương pháp là không khó. Chỉ ao ước ở bên ngoài thân thể bạn và bạn ở bên ngoài nó. Bản thân ước muốn là việc hoàn thành. Với thể thứ hai không nỗ lực nào phải được làm vì không có sức hút hấp dẫn. Khó khăn cho thể thứ nhất là vì lực hấp dẫn. Nếu tôi muốn tới nhà bạn, tôi sẽ phải tranh đấu với lực hấp dẫn. Nhưng nếu không có sức hấp dẫn, thế thì ham muốn đơn giản sẽ là đủ. Sự việc sẽ xảy ra.

Thể ê te là thể được đưa vào làm việc trong thôi miên. Thể thứ nhất không được tham gia vào trong thôi miên; đó là thể thứ hai. Đó là lí do tại sao người với cái nhìn hoàn hảo có thể thành mù. Nếu người thôi miên nói rằng bạn đã bị mù, bạn trở thành mù chỉ bởi việc tin vào điều đó. Chính thể ê te đã bị ảnh hưởng; việc gợi ý đi tới thể ê te. Nếu bạn ở trong thôi miên sâu, thể thứ hai của bạn có thể bị ảnh hưởng. Người mạnh khoẻ có thể bị liệt bởi việc gợi ý cho người đó rằng “anh bị liệt.” Người thôi miên phải không dùng bất kì ngôn ngữ nào tạo ra hoài nghi. Nếu ông ta nói, “Dường như là anh đã bị mù,” nó sẽ không có tác dụng. Ông ta phải tuyệt đối chắc chắn về điều đó. Chỉ thế thì lời gợi ý sẽ có tác dụng.

Cho nên trong thể thứ hai chỉ nói: “Tôi ở ngoài thân thể.” Chỉ ao ước ở ngoài nó, và bạn sẽ ở ngoài nó. Giấc ngủ bình thường thuộc vào thể thứ nhất. Chính thể thứ nhất – bị kiệt sức bởi lao động, làm việc, căng thẳng trong ngày – trở nên thảnh thơi. Trong thôi miên, chính thể thứ hai được đặt vào ngủ. Nếu nó được đặt vào ngủ, bạn có thể làm việc với nó.

Khi bạn bị bất kì bệnh nào, bẩy mươi nhăm phần trăm bệnh tới từ thể thứ hai và lan sang thể thứ nhất. Thể thứ hai là dễ bị gợi ý tới mức sinh viên y năm thứ nhất bao giờ cũng bị cùng bệnh mà được cho học. Họ bắt đầu có các triệu chứng. Nếu đau đầu được thảo luận, một cách không chủ ý mọi người đi vào bên trong và bắt đầu hỏi, “Mình có bị đau đầu không? Mình có những triệu chứng này không?” Vì việc đi vào trong ảnh hưởng tới thân thể, lời gợi ý bị bắt lại và đau đầu bị phóng chiếu, được tạo ra.

Đau của việc sinh con không phải là của thể thứ nhất; nó là của thể thứ hai. Cho nên qua thôi miên, việc sinh con có thể được làm thành tuyệt đối không đau – chỉ bằng gợi ý. Có những xã hội nguyên thuỷ trong đó đàn bà không cảm thấy đau khi sinh vì khả năng này chưa bao giờ đi vào tâm trí họ. Nhưng mọi kiểu văn minh đều tạo ra những gợi ý chung mà rồi trở thành một phần trong trông đợi của mọi người.

Dưới thôi miên không có đau. Ngay cả cuộc giải phẫu cũng có thể được tiến hành dưới thôi miên mà không có đau gì vì nếu thể thứ hai nhận gợi ý rằng sẽ không có đau thế thì không có đau. Khi có liên quan tới tôi, mọi kiểu đau, và mọi kiểu vui thú nữa, đều tới từ thể thứ hai và lan sang thể thứ nhất. Cho nên nếu gợi ý thay đổi, cùng điều đã từng là đau có thể trở thành vui thích, và ngược lại.

Thay đổi gợi ý, thay đổi tâm trí ê te, và mọi thứ sẽ được thay đổi. Chỉ ao ước một cách toàn bộ và nó sẽ xảy ra. Tính toàn bộ là khác biệt duy nhất giữa ao ước và ý chí. Khi bạn đã ao ước cái gì đó một cách toàn bộ, hoàn toàn, với toàn thể tâm trí của bạn, nó trở thành sức mạnh ý chí.

Nếu bạn ao ước một cách toàn bộ đi ra ngoài thân thể sinh lí của bạn, bạn có thể đi ra ngoài nó. Thế thì có khả năng biết thể thứ hai từ bên trong, bằng không thì không biết được. Khi bạn đi ra ngoài thể vật lí của bạn, bạn không còn ở giữa: bên trong thể thứ nhất và bên ngoài thể thứ hai. Bây giờ bạn ở bên trong thể thứ hai. Thể thứ nhất không hiện hữu.

Bây giờ bạn có thể trở nên nhận biết về thể thứ hai của bạn từ bên trong, cũng như bạn đã trở nên nhận biết về thể thứ nhất của bạn từ bên trong. Nhận biết về cách làm việc bên trong của nó đi, cơ chế bên trong của nó, sự sống bên trong. Lần đầu tiên bạn thử nó là khó, nhưng sau đó bạn bao giờ cũng sẽ ở bên trong hai thể: thể thứ nhất và thể thứ hai. Điểm chú ý của bạn bây giờ sẽ là ở hai cõi, hai chiều.

 

Từ “Tâm lí của bí truyền”, ch.7