Một lần, một sư hỏi Fuketsu, “Phật là cái gì?”
Fuketsu đáp, “Trúc đụng núi Jorin.”
Bạn sẽ ngạc nhiên bởi câu trả lời này, nhưng điều ông ấy nói không đích xác là điều ông ấy ngụ ý. Khi ông ấy nói, “Trúc đụng núi Jorin” – Núi Jorin ở ngay trước Núi Fuketsu – vào khoảnh khắc đó một làn gió nhẹ phải đã thổi qua rặng trúc trên núi Jorin và trúc phải đã gây ra tiếng động, đập vào nhau, nhảy múa trong gió, trong ánh mặt trời.
Vào khoảnh khắc này, Fuketsu được một sư hỏi,
“Phật là cái gì?”
Fuketsu đáp, “Chính khoảnh khắc này… tỉnh táo và nhận biết chính khoảnh khắc này là việc là Phật.
Cứ nhìn trúc đụng nhau trên Núi Jorin mà xem….”
Thiền chỉ tin cậy vào khoảnh khắc này. Thiền không thể nói về Phật Gautam nào đó từ hàng trăm năm quá khứ. Khi chư phật trúc đang nhảy múa trong không trung, tạo ra tiếng ồn mở hội lớn, điều đó là đủ chỉ ra thực tại, khoảnh khắc này. Đó là thông điệp tinh tuý của Phật: sống trong khoảnh khắc này, không bao giờ trong quá khứ, không bao giờ trong tương lai. Sống trong khoảnh khắc này… và bạn đã trở thành vị Phật. Ở đây và bây giờ, và bạn là vị Phật.
Thế rồi sư khác hỏi, “Phật là cái gì?”
Fuketsu nói, “Chúng ta biết mọi khúc uốn lượn của suối núi, nhưng không biết bản thân núi,” bởi vì ông này đã không hiểu điều đang diễn ra. Người này đang hỏi, “Phật là cái gì?” – và bạn đang nói về trúc.
Cho nên sư khác lại hỏi,
” Phật là cái gì?”
Fuketsu trả lời, “Phật không là cái gì?”
Đây là câu trả lời mênh mông:
“Phật không là cái gì?”
Phật là chính bản tính của sự tồn tại. Từ nhành lá nhỏ nhất tới ngôi sao lớn nhất, mọi thứ về bản chất, về tiêm năng, là vị Phật.
Một số Phật đang ngủ, không có hại gì trong điều đó.
Một số Phật đã thức tỉnh, không có vinh quang gì trong điều đó.
Chỉ chăm chú, khi bạn là vị Phật đang ngủ – không ngáy, vì điều đó làm chư Phật ngủ khác bị rối. Không quấy rối bất kì người nào, không can thiệp vào lãnh thổ của bất kì người nào – đó là đức hạnh duy nhất tôi biết.
Không có mấy khác biệt…. tôi đã ngủ hôm qua, hôm nay tôi thức. Hôm nay bạn ngủ, ngày mai bạn có thể thức – hay có thể hôm nay.
Phật là bản tính thực của chúng ta, do đó Fuketsu đã nêu ra một phát biểu quan trọng nhất:
“Phật không là cái gì? Ông nói cho ta đi.
“Ông hỏi ta, Phật là cái gì? Ông có điên không? Bản thân sự sống là Phật. Bản thân sự tồn tại là Phật.”
Vâng, chư Phật được thấy trong hai phân loại: vài người đang ngủ, có thể mệt mỏi, mệt của nhiều nhiều vòng đời, nhiều nhiều việc sinh, nhiều nhiều việc chết, đang nghỉ. Nhưng vài người đã nghỉ đủ rồi. Họ mệt vì nghỉ, cho nên họ thức dậy. Nhưng không có khác biệt bản chất: Phật thức, Phật ngủ – cả hai đều là Phật.
Ngủ không thể làm rối bản tính của bạn, mà thức cũng không thể nâng cao bản tính của bạn. Vâng, ngủ bạn không biết bạn là ai; thức, không chỉ bạn biết bạn là ai, bạn biết toàn thể sự tồn tại, phẩm chất thực của nó – phẩm chất của Phật tính. Một khi bạn trở thành phật, đột nhiên toàn thể sự tồn tại là ngọn lửa nhận biết.
Câu trả lời của Fuketsu là vĩ đại:
“Phật không là cái gì?”
Sư thứ ba nói với Fuketsu, “Tổ phương tây tới mang theo thông điệp của ông ấy; tôi xin thầy nói thẳng nó cho tôi!”
Một dịp khác một sư hỏi, “Nghĩa của việc Bồ đề đạt ma tới từ phương tây là gì?” Ông ấy đang hỏi về Bồ đề đạt ma. Đó là câu hỏi thường xuyên trong thế giới Thiền: Tại sao Bồ đề đạt ma đã từ Ấn Độ tới Trung Quốc? Thông điệp của ông ấy là gì?
Tại điểm này, Fuketsu đáp, “Khi một con chó sủa vào hư không, cả nghìn con khỉ thực sự nhe răng ra.”
Câu trả lời kì lạ, nhưng có ý nghĩa. Ông ấy đang nói, “Tại sao ông bận tâm về những điều này? Bồ đề đạt ma tới Trung Quốc để sủa!”
Mọi chư Phật đang làm đích xác điều đó: sủa vào người đang ngủ. Người đang ngủ ngụ ý khỉ.
“Khi một con chó sủa vào hư không…”
Bạn phải đã thấy cho sủa vào hư không – chư Phật lớn! Thông điệp duy nhất của Phật là hư không, hay, nói thẳng hơn, không tính đồ vật. Bạn không là đồ vật, bạn không là món hàng. Bạn ở bên ngoài tính đồ vật. Bạn là ánh sáng lên bản thân bạn.
“ Khi một con chó sủa vào hư không…”
Nhớ rõ ràng rằng Thiền chấp nhận rằng chó có bản tính Phật cũng như bạn có. Mọi sinh linh… chính sự sống về bản chất đang che giấu vị Phật trong bản thân nó.
“Khi một con chó sủa vào hư không, cả nghìn con khỉ thực sự nhe răng ra.”
Khi một Bồ đề đạt ma tới Trung Quốc và sủa, cả nghìn con khỉ trở thành Phật tử – nhưng họ đã không hiểu thông điệp này. Họ đã cười vào việc sủa của Bồ đề đạt ma vào hư không; họ thích thú. Với họ, giải trí là chứng ngộ. Khỉ sau rốt vẫn là khỉ.
Nhưng điều ông ấy đang nói, ông ấy đang nói về nhân loại. Nếu bạn không là Phật, quên mọi điều về nhân loại đi. Tất nhiên bạn có thân thể của con người, nhưng bên trong, nhìn vào tâm trí bạn – nó là con khỉ.
Chỉ Phật dừng con khỉ hoàn toàn. Chỉ Phật sống trong vô trí. Và vô trí làm cho bạn thành người đích thực, sự tồn tại đích thực, bộ phận đích thực của càn khôn, của vĩnh hằng. Bạn biến mất trong đại dương của sự tồn tại, và đó là phúc lành lớn nhất, cực lạc lớn nhất.
Một dịp khác một sư hỏi, “Nghĩa của việc Bồ đề đạt ma tới từ phương tây là gì?”
Cùng câu hỏi.
Fuketsu nói, “Chúng ta biết mọi khúc uốn lượn của suối núi, nhưng không biết bản thân núi.”
Bạn phải chú ý tới sự kiện này. Bạn có thể đặt cùng câu hỏi cho cùng thầy lặp đi lặp lại, nhưng bạn sẽ không bao giờ nhận được cùng câu trả lời lần nữa. Thầy đáp ứng với khoảnh khắc một cách tự phát, thầy không lặp lại từ kí ức. Đáp ứng của thầy là thuần khiết thế….
Mọi thứ liên tục thay đổi, nhưng phản ứng của bạn vẫn còn như cũ. Đáp ứng liên tục thay đổi cùng với luồng thay đổi của sự tồn tại.
Thầy không bao giờ phản ứng, thầy chỉ đáp ứng.
Cho nên câu hỏi vẫn là như cũ, nhưng câu trả lời của Fuketsu là khác toàn bộ.
Ông ấy nói,
“Chúng ta biết mọi khúc uốn lượn của suối núi…”
Ông ấy đang ngồi trên Núi Fuketsu, và dòng suối núi đang uốn lượn quanh núi. Nó là khoảnh khắc hiện tại. Ông ấy chỉ cho người hỏi,
“Chúng ta biết mọi khúc uốn lượn của suối núi, nhưng không biết bản thân núi.”
Để biết núi bạn sẽ phải trở thành núi. Để biết Bồ đề đạt ma bạn sẽ phải trở thành một Bồ đề đạt ma. Không có cách khác.
Để biết Phật bạn phải trở thành Phật. Là Phật tử, bạn đang như khỉ, bạn đang bắt chước. Khỉ rất giỏi khi có liên quan tới bắt chước.
Mọi cái gọi là tôn giáo đều đầy khỉ.
Người Ki tô giáo đang lặp lại Jesus; kinh điển nổi tiếng của họ là bắt chước Christ. Không ai nghĩ rằng `bắt chước’ là từ xấu. Nó là một kinh điển rất được yêu mến của Ki tô giáo.
Các Phật tử đang cố gắng – bắt chước – là Phật. Nhưng bằng bắt chước bạn có thể hành động như Phật, nhưng bạn không thể là Phật.
Nếu bạn muốn là Phật, quên mọi điều về chư Phật và Christ và Krishna đi. Chỉ là bản thân bạn, đi vào trong bản thân bạn, và bạn sẽ thấy Phật – không bởi việc là Phật tử, nhưng bởi chỉ tìm ra tính đích thực của bạn, trung tâm bên trong nhất của bạn. Đừng là khỉ bao giờ.
Tôi nhớ tới một câu chuyện hay.
Một người thường bán các mũ Gandhi. Đặc biệt vào lúc bầu cử ở Ấn Độ, mũ Gandhi được cần rất nhiều. Mọi người đều muốn chứng tỏ rằng mình là người theo Gandhi. Mũ Gandhi giống như cờ, biểu lộ cho mọi người rằng “Tôi là người theo Gandhi. Bỏ phiếu cho tôi.”
Một người thường làm mũ Gandhi cho thời gian bầu cử, và anh ta thường đi từ chợ để tiếp thị bán mũ. Đó là kinh doanh hời. Mũ đang có nhu cầu lớn.
Một hôm, anh ta mệt mỏi quay về nhà. Bản thân anh ta đang đội mũ Gandhi, và trong túi của mình anh ta vẫn còn nhiều mũ. Anh ta đã nghĩ đi sang chợ khác, nhưng anh ta mệt tới mức dưới một gốc cây bồ đề lớn, cùng cây dưới đó Phật đã trở nên chứng ngộ… Đó là lí do tại sao cây đó được gọi là cây bồ đề. Nó được đặt tên theo Phật. Bồ đề ngụ ý chứng ngộ.
Nó là một cây kì lạ trong mọi cây; nó có thể mọc sum suê như bạn muốn. Các cành của nó sau khi đạt chiều dài nào đó trở nên nặng tới mức chúng rủ xuống. Vì trọng lượng của chúng là lớn thế, để bảo vệ bản thân chúng, các cành mọc các rễ mới xuống đất. Khi rễ mới đạt tới đất, chúng có giá đỡ mới. Và từng cành liên tục mọc các rễ mới, cho nên có cây bồ đề khổng lồ.
Một cây tồn tại ở Adyar tại tổng hành dinh thế giới của phong trào thông thiên học. Nó khổng lồ tới mức mười nghìn người có thể ngồi dưới nó. Những người thông thiên học thường tổ chức các cuộc họp của họ dưới cây bồ đề này.
Người này đã không nhìn vào cây, nhưng nó đầy khỉ. Anh ta mệt thế, anh ta chỉ để túi bên cạng mình và đi vào giấc ngủ. Lũ khỉ quan sát. Chúng không thể cưỡng được cám dỗ lấy mũ Gandhi. Chúng tới gần hơn và chúng thấy rằng người này đã ngủ say, cho nên chúng kéo túi mở ra. Mỗi con khỉ lấy một cái mũ; chỉ một con khỉ không còn mũ.
Khi người này đã nghỉ ngơi xong, anh ta nhìn xung quanh. Túi của anh ta trống rỗng, và anh ta không thể thấy có người nào. Thế rồi bọn khỉ bắt đầu cười khúc khích. Anh ta nhìn lên. Anh ta nói, “Trời! Nhiều người theo Gandhi thế! Giờ làm gì đây?” Thế rồi đột nhiên anh ta nhớ rằng khỉ là kẻ bắt chước. Thế là anh ta cởi mũ ra và ném xuống đất. Tất cả lũ khỉ cởi mũ ra và ném xuống đất. Anh ta thu thập mũ và trở về nhà.
Năm sau anh ta cảm thấy ốm vào lúc bầu cử. Anh ta đã chuẩn bị mũ cho nên anh ta bảo con trai mình đi ra chợ: “Nhưng nhớ một điều. Có một cây bồ đề rất khổng lồ với đầy khỉ. Và bóng của nó thì mát thế… sau nhiều dặm đường đi bộ, người ta cảm thấy muốn nghỉ. Cho nên bố kể cho con kinh nghiệm của bố, bằng không con sẽ gặp rắc rối. Nếu điều đó xảy ra cho con, nhớ, đừng lo nghĩ: khỉ là kẻ bắt chước.
“Nếu con muốn ngủ, đi ngủ. Nếu khỉ lấy mũ, cứ để chúng thích thú một chốc. Khi con thức dậy, đừng lo nghĩ, chỉ ném mũ của con xuống và chúng tất cả sẽ ném mũ xuống. Thu thập lấy mũ và về nhà.”
Cậu con trai nói, “Hay đấy.” Thực ra, cậu đang trông đợi tận hưởng khoảng khắc thú vị này.
Trước khi đi tới chợ – người bố đã nghỉ khi ông ấy quay về – cậu con nghĩ, “Sao không nghỉ bây giờ và tận hưởng và thế rồi đi ra chợ?” Cho nên cùng với túi đầy, anh ta đi ngủ. Lũ khỉ trèo xuống, và khi anh ta thức dậy chúng tất cả đều đã đội mũ.
Cậu con trai nhìn lên. Tất cả chúng cười khúc khích. Cậu con trai biết thủ đoạn này; cậu ném mũ của mình xuống. Không con khỉ nào ném mũ của nó; ngược lại, một con khỉ mà đã không lấy được mũ trèo xuống và lấy chiếc mũ của anh ta và trèo lên.
Không chỉ bố của cậu con trai đã kể cho cậu ấy, lũ khỉ cũng đã được bố mẹ chúng kể cho, “Nếu việc như vậy xảy ra, đừng bị lừa.”
Từ “Một hạt mầm làm cả trái đất xanh”, Ch.3