Giác quan ngoài và giác quan trong

Con đường Đạo.3.6.1 Giác quan ngoài và giác quan trong

 

Quả tối thượng của sống chỉ có thể là chết. Điều có thể được nói là chúng ta chết đi từng ngày nhân danh sống. Chết không tới toàn bất thần. Không cái gì xảy ra một cách ngẫu nhiên hay bất thần trong thế giới này. Cái mà chúng ta có thể gọi là xảy ra thực tại là quá trình lâu dài. Chết cũng không giáng xuống một cách thình lình, nó phát triển dần từng ngày. Nó không phải là biến cố mà là quá trình. Chết bắt đầu từ chính khoảnh khắc sinh. Vào ngày của chết, quá trình này hoàn thành. Chết là sự phát triển, nó không là bất thần.

Cho nên không phải là chết sẽ xảy ra lúc nào đó trong tương lai. Nó xảy ra một cách liên tục. Nó đang xảy ra ngay cả bây giờ, khi chúng ta ngồi đây. Nếu chúng ta ngồi một giờ ở đây, chúng ta sẽ bị chết bởi giờ khác; sống sẽ bị làm rỗng dần bởi một giờ thêm. Điều khác: chết không phải là cái gì đó tới với bạn từ bên ngoài. Tất cả chúng ta đều nghĩ rằng chết tới từ bên ngoài, rằng sứ giả của chết kéo hơi thở sống ra từ bên trong chúng ta. Đây là quan niệm sai nảy sinh từ niềm tin của chúng ta rằng mọi đau giáng lên chúng ta bởi người khác. Không ai đem chết tới. Nó là việc xảy ra bên trong. Nó xảy ra bên trong bản thân bạn. Bộ máy mà là bạn bắt đầu dần dần nhường đường – rồi một ngày nào đó, chết xuất hiện. Cho nên chết là quá trình dài bắt đầu với sống và kết thúc với chết.

Điều khác, nó không phải là việc xảy ra bên ngoài. Nó phát triển từ bên trong – nó là quá trình nội bộ. Nếu điều này tới bên trong việc hiểu của chúng ta, chúng ta sẽ thấy rằng quá trình chết xảy ra mọi ngày, và trong nhiều hình thể. Mắt bị suy yếu và chung cuộc bị phá huỷ bởi hành động nhìn liên tục. Tai mất năng lực nghe bởi quá trình nghe liên tục. Cùng điều này xảy ra với các giác quan khác. Chúng ta chết đi trong quá trình sống. Chính hành động sống là thu xếp cho chết. Nó làm mòn mỏi chúng ta cho tới chung cuộc toàn thể hệ thống sụp đổ.

Lão Tử nói: “Mầu sắc đa dạng làm mù mắt.” Chúng ta không bao giờ có thể tưởng tượng được rằng mầu sắc có thể làm hỏng thị lực. Chúng ta nghĩ mầu sắc là sự sống của thị lực. Tận hưởng khung cảnh đa mầu sắc của tự nhiên là chức năng của mắt. Mầu sắc và hình thể là chất nuôi dưỡng cho thị lực. Nhưng Lão Tử tuyên bố rằng chúng là chết cho mắt. Điều này có nghĩa kép. Một nghĩa là ở chỗ bằng việc thường xuyên nhìn, mắt mệt mỏi, trở nên yếu, và chung cuộc mất thị lực. Không phải tuổi già gây ra việc yếu đi của mắt; chính sự kiện là mắt đã nhìn quá lâu; cái máy này bị mòn mỏi đi. Cùng điều này áp dụng cho tai. Chúng điếc do sự kiện rằng cơ chế nghe bị mòn mỏi bởi việc dùng thường xuyên và lâu dài. Cái máy này đã phát triển nhanh việc dùng nhiều nó và giờ đến lúc phải được về hưu.

Được nhìn trong hoàn cảnh này, chúng ta có thể nói rằng mắt càng nhìn nhiều, chúng càng chết nhiều; tai càng nghe nhiều, chúng càng mau bị điếc; chúng ta càng chạm nhiều, chúng ta càng trở nên kém nhạy cảm; và chúng ta càng nếm nhiều, khứu giác càng trở nên kém hơn. Điều này ngụ ý rằng từng giác quan làm việc hướng tới việc phá huỷ riêng của nó. Do đó toàn thể cuộc sống của chúng ta là việc tự tử.

Sau khi xem phim, bạn cảm thấy mắt bạn bị mệt. Mắt bạn mở dù bạn ở bất kì chỗ nào, dù bạn xem phim hay đọc sách hay chỉ nhìn. Thế thì tại sao có chuyện chúng cảm thấy đặc biệt mệt sau khi xem phim? Lí do là ở chỗ khi bạn hoàn toàn bị thu hút vào trong phim, mắt bạn dừng chớp. Việc chớp mắt là việc xếp đặt ngắt hành động nhìn, và do vậy giữ cho mắt khỏi bị mệt bởi việc nhìn liên tục. Việc nhìn thường xuyên xảy ra trong rạp chiếu phim làm mắt mệt, nhiều tới mức bạn thấy khó nhắm chúng lại ngay lập tức.

Chính một sự kiện nổi tiếng là các hoạ sĩ và nghệ sĩ trở nên mù sớm. Điều này đáng phải không là hoàn cảnh, vì những người có mắt đã nhìn nhiều thế đáng phải tươi tắn hơn. Nhưng sự kiện là ở chỗ việc sống nhiều thế với mầu sắc làm chúng mệt và chúng sụp đổ. Bất kì giác quan nào chúng ta dùng ra ngoài năng lực của nó đều sớm mệt và chết.

Đây là một nghĩa. Cách diễn giải khác là ở chỗ Lão Tử ngụ ý nói rằng chúng ta có thể giữ cho các giác quan của mình sống và tươi tắn cho tới khoảnh khắc chết. Người giữ cho các giác quan của mình trẻ trung và tươi tắn tới giờ cuối của mình có thể tận hưởng hương vị của chết; người đó có thể tận hưởng mầu sắc của chết; người đó có thể chạm vào chết; người đó có thể trải nghiệm chết. Nhưng hỡi ôi, mọi năng lực của chúng để trải nghiệm bị phá huỷ từ lâu trước chết! Do đó, mặc cho sự kiện rằng chúng ta đã chết nhiều lần, chúng ta không có kinh nghiệm về chết.

Có lí do cho điều này. Chúng ta đã chết nhiều lần rồi, nhưng nếu chúng ta hỏi một người chết là gì, người đó sẽ nói người đó không có ý tưởng nào chết giống cái gì. Điều này là vì chúng ta chẳng nhớ gì vào lúc chết. Việc nhớ chỉ có thể xảy ra nếu các giác quan còn tỉnh táo. Thế thì chúng có thể trải nghiệm, và kinh nghiệm đó còn lại trong kí ức. Nói chung, với phần lớn mọi người, các giác quan chết trước cái chết thực tại. Do đó, không có việc nhớ về chết.

Điều thú vị cần lưu ý là chín mươi chín phần trăm những người nhớ các kiếp quá khứ của họ là những người đã chết trong kiếp trước của họ khi còn là trẻ em hay thanh niên. Các kiếp của họ đột ngột đi tới điểm dừng khi các giác quan của họ vẫn còn tỉnh táo và tươi mới. Tác động của chết lên tâm trí và trí tuệ tươi mới của họ do vậy được mang vào kiếp sau của họ. Vậy mà, không người nào trong số những người tuyên bố nhớ các kiếp sống quá khứ của họ, đã nói họ chín mươi tuổi khi họ chết. Không phải là điều này là không thể có, nhưng nó không xảy ra vì bộ máy của người ta bị tàn tạ từ lâu trước khi người ta chết. Người khởi hành đi tìm nước cam lồ, người ao ước tìm Đạo tối cao, phải giữ cho các giác quan của mình tỉnh táo và tươi tắn mọi khoảnh khắc. Thế thì một mình người đó có thể trải nghiệm chết – và cũng cả sống.

Chính một sự kiện đáng chú ý là những người thường xuyên nhìn mầu sắc không chỉ mất đi thị lực của họ mà còn mất cả vị giác và kinh nghiệm về mầu. Dòng suối bị khô đi và chỉ chỗ hổng còn lại. Đó là lí do tại sao thế giới không bao giờ mầu sắc thế trong cuộc sống về sau khi nó xuất hiện cho mắt đứa trẻ. Sự xúc động mà đứa trẻ trải nghiệm khi nó chạm vào một thứ, nó không bao giờ cảm thấy lần nữa trong cuộc sống về sau. Lí do là gì? Lí do chỉ là thế này: rằng các giác quan của đứa trẻ vẫn còn tươi tắn và bất kì cảm giác nào được nhận từ chúng đều được ghi lại đầy đủ và toàn bộ, bên trong. Có phong trào đi bộ ở Mĩ để trau rèn tính nhạy cảm. Có một viện lớn ở Big Sur – một chỗ ở California. Có lẽ thực nghiệm có ý nghĩa nhất của thời đại này đang được tiến hành ở đó. Thực nghiệm này nhắm vào việc khôi phục năng lực của các giác quan. Thực nghiệm này kéo dài hai mươi mốt ngày. Mọi người được dạy lại để nhìn, nghe, cảm và nếm.

Bây giờ chẳng hạn, khi bạn ngồi ăn, nếu mắt và mũi bạn bị bịt lại và bạn được cho một miếng táo và một miềng hành, bạn sẽ không có khả năng phân biệt giữa chúng. Điều này là vì mắt và mũi đóng vai trò quan trọng tương đương trong việc phân biệt giữa các vật. Chẳng hạn, ở Big Sur khi một quả táo được trao cho, những người tham gia được yêu cầu chạm vào nó, thế rồi nhìn mầu sắc và hình thể của nó, thế rồi cọ nó vào má họ, thế rồi nhắm mắt và cảm thấy nó trên má của họ, thế rồi để nó vào trong mồm và nếm nó. Và mọi điều này là để được làm một cách có ý thức. Trong thời gian hai mươi mốt ngày, bạn trải nghiệm hương vị mới, mùi thơm mới, việc cảm mới từ các bữa ăn của bạn. Khi điều này xảy ra, toàn thể quá trình ăn thay đổi. Thế thì số lượng thức ăn ít hơn sẽ cho bạn sự thoả mãn lớn hơn.

Tất cả chúng ta đều ăn quá mức. Lí do là ở chỗ chúng ta ăn, nhưng chúng ta không nhận được sự thoả mãn của việc ăn. Thế thì, khi chúng ta đã ăn đủ nhưng không cảm thấy được thoả mãn, chúng ta cảm thấy chúng ta cần ăn thêm nữa. Tuy nhiên chúng ta không biết rằng ăn quá no phá huỷ tính nhạy cảm để trải nghiệm việc thoả mãn, cho tới ngày mồm chúng ta mất mọi cảm giác thưởng thức. Thế rồi chúng ta cố làm sống lại việc thưởng thức của chúng ta với thức ăn cay và hăng. Một người nói, “Tôi chỉ thích thú đồ ăn cay.” Điều này có nghĩa là chỉ hương vị hăng ghi nhận trên các nụ vị giác của người đó. Mọi vị khác không còn được truyền đạt bởi nụ vị giác của người đó, mọi vị khác không còn được truyền đạt bởi mồm người đó.

Ở Assam, Bengal và một số phần của Bihar nơi thực hành hệ thống tu luyện cổ đại về tantra vẫn còn đang thịnh hành, người thực hành sadhaka cùng chia sẻ mọi loại chất gây say và vẫn giữ sự nhanh trí của anh ta. Rượu là một phần của hệ thống tu luyện này. Những người thực hành sadhakas uống rượu như nước, nhiều tới mức nó không có tác động gì lên họ dù là bất kì cái gì. Không khối lượng thuốc phiện hay gai dầu nào có bất kì tác động nào lên họ. Thế rồi họ cần cầm rắn và làm cho chúng cắn vào lưỡi họ để có cảm giác nào đó. Những người tiến bộ xa hơn trong hệ thống tu luyện của họ cần cầm rắn lớn hơn và độc hơn, những con sẽ gây ra chết ngay lập tức cho người thường.

Có thể giết chết giác quan của người ta nhiều thế. Thực ra, tất cả chúng ta đều đã giết chết các giác quan của chúng ta tới mức độ nào đó. Đây là lí do tại sao chúng ta không bao giờ trải nghiệm những tiếng gọi thầm, những kinh nghiệm tinh tế, nhẹ nhàng. Chúng ta cần có những kinh nghiệm sắc nét. Nếu giai điệu của đàn veena là rất dịu, chúng không làm chúng ta để ý. Tinh thính sắc sảo được cần tới cho điều này. Chúng ta bị giật mình trong việc cảm và trải nghiệm chỉ khi có ồn ào và náo động. Chỉ thế thì chúng ta mới ý thức rằng âm thanh nào đó đang diễn ra. Mọi thứ bên trong chúng ta là chết.

Lão Tử nói: “Mầu sắc giết chết mắt chúng ta, âm thanh giết chết tai và mùi vị giết chết khả năng nếm.” Cái chết này của các giác quan bao bọc chúng ta trong quan tài từ lâu trước cái chết của chúng ta. Thế thì chúng ta tiếp tục sống bên trong các quan tài của chúng ta, kéo lê cái xác của mình.

Điều này có tác động xấu gấp đôi lên chúng ta. Tác động thứ nhất là ở chỗ trải nghiệm sự sống trở nên ngày càng yếu hơn, và cảm nhận về sự tồn tại bị hạn chế và cản trở – và thế thì chúng ta bị tước đi trải nghiệm lớn về chết, điều chúng ta đáng phải trải qua. Người không trải nghiệm chết cũng tước của bản thân mình đi trải nghiệm sống và không thể nhận ra thực tại của sự sống. Người đó đã chỉ biết thất vọng và lo âu của cuộc sống và không biết sự thảnh thơi tối cao. Trải nghiệm của người đó là rối bời, nhưng không phải là an bình và tĩnh lặng của thành thơi. Người đó vẫn còn là người lạ với chết.

Tuy nhiên điều này là tác động xấu rất bề ngoài. Tác động xấu thứ hai là sâu sắc hơn. Mọi giác quan của chúng ta đều có hai mặt. Có mắt nhìn ra ngoài. Bên trong chúng có mắt nhìn vào bên trong. Có tai nghe bên ngoài, nhưng chúng có cơ chế bên trong mà nghe từ bên trong.

Bịt tai bạn lại. Bịt chặt để cho không tiếng động nào từ bên ngoài có thể đi vào. Bạn sẽ vẫn nghe thấy tiếng đập của tim bạn. Âm thanh này không tới từ bên ngoài. Theo cùng cách, nhắm mắt lại. Gạt sang bên mọi hình thể và hình ảnh mà mắt đã bắt lấy từ bên ngoài. Bạn sẽ cảm thấy những trải nghiệm mới, thấy các mầu sắc mới, sáng mới, tối mới mà bạn chưa bao giờ thấy trước đây. Mắt bắt đầu cuộc hành trình bên trong của chúng.

Từng giác quan đều có năng lực trải nghiệm bên trong. Nhưng chúng ta bận bịu với thế giới bên ngoài tới mức chúng ta đã hoàn toàn quên mất thế giới bên trong chúng ta, cái có thể được trải nghiệm bởi cùng giác quan. Thế giới bên trong này vẫn còn là cuốn sách đóng. Lão Tử nói rằng những người cảm nhận mầu sắc sẽ không chỉ đi tới mù ở mắt bên ngoài, mà cũng không mở được mắt bên trong của mình. Người ngừng tai ngoài của mình bắt đầu nghe thấy nhạc bên trong.

Người từ bỏ các vị bên ngoài nhận được vị của nước cam lồ bên trong, Kabir nói. Nước cam lồ bắt đầu chảy từ bên trong người đó. Có vị ngọt bên trong nhưng khó nhận ra nó.

Bạn đã bao giờ nhận ra rằng giận có vị riêng của nó không? Khi bạn bị chất đầy bởi giận, thử và nhắm mắt lại. Quên giận và cố nếm trải giận bên trong. Bạn sẽ cảm thấy một cảm giác khô nẻ và đắng ngắt, vị nhạt nhẽo trong mồm. Khi bạn được tràn đầy với yêu, đi vào bên trong và trải nghiệm vị của yêu, chính là vị duy nhất toàn thể. Bạn sẽ cảm thấy sự dịu dàng ngọt ngào tan chảy bên trong bạn; bạn sẽ cảm thấy vị của cái không quen thuộc, không biết và không thấy bên trong bạn. Thế thì bạn sẽ có khả năng phân biệt các vị của giận và yêu một cách rõ ràng. Thế thì, bạn có thể trải nghiệm vị của mọi cảm xúc.

Thiền có vị của riêng nó; căng thẳng có vị của riêng nó. Khi không ý nghĩ nào có đó, mọi giác quan trở nên yên tĩnh và tĩnh lặng. Thế thì vị sinh ra từ thiền là nước cam lồ (amrit). Vị này có tên là cam lồ bởi hai lí do. Một là ở chỗ không có vị nào ngọt hơn nước cam lồ. Thứ hai là ở chỗ khi đạt tới vị này, chúng ta lập tức đi tới biết rằng không có chết. Tôi không thể chết. Cái chết của tôi là không thể được. Cái mà chết đi chỉ là cái máy. Tôi vẫn còn sau chết.

 

Từ “Con đường Đạo”, T.3, Ch.6 Đói của giác quan không liên quan tới đói của linh hồn

Để lại một bình luận