Ai quyết định việc làm thầy?

Osho kính yêu,

Thầy đã nói cho chúng tôi rằng đã từng có nhiều người chứng ngộ, người đã không bao giờ trở thành thầy. Dường như dễ hơn cho tôi là hiểu điều đó hơn là hiểu tại sao hay làm sao ai đó trở thành thầy. Khi tôi thấy cách thầy bị đối xử, tôi ngạc nhiên. Các chính phủ đánh thầy, không cho thầy vào, và tống thầy vào tù. Đại đa số mọi người thậm chí không quan tâm tìn ra thầy là ai hay thầy đang nói về cái gì. Và vài người yêu và nghe thầy vẫn nấn ná trong giấc ngủ của họ.

Osho kính yêu, thầy đã chọn là thầy và cố đánh thức chúng tôi dậy, hay đó là quyết định của sự tồn tại? Ai quyết định liệu người chứng ngộ là thầy hay không?

 

Người chứng ngộ ở bên ngoài việc lấy bất kì quyết định nào, cho nên điều đầu tiên cần được hiểu là ở chỗ người đó không quyết định. Quyết định là phần của bản ngã. Về bản chất, nó là việc tranh đấu: làm cái này hay làm cái nọ. Và bản ngã nghĩ nó khôn hơn sự tồn tại. Một khi bản ngã mất rồi, việc làm quyết định cũng mất.

Người chứng ngộ đơn giản sống mà không có bất kì quyết định nào, không có bất kì mục đích nào, không có bất kì khao khát nào. Người đó đã đi tới điểm từ đó bất kì quyết định nào sẽ là chống lại sự tồn tại. Chỉ việc buông bỏ không quyết định có thể là con đường của người có tính tồn tại. Cho nên vấn đề không phải là quyết định. Hàng nghìn người đã trở nên chứng ngộ, nhưng chỉ rất ít người đã trở thành thầy. Cho nên một cách tự nhiên tâm trí nghĩ, ai quyết định rằng vài người phải trở thành thầy và rằng phần còn lại phải đơn giản biến mất vào trong vũ trụ? Không ai quyết định.

Cách thức mọi sự làm việc là khác toàn bộ với việc làm quyết định. Đã từng có các thầy và đã từng có người chứng ngộ, và đã từng có các hướng khác tới chứng ngộ nữa: đã từng có các nhà thơ, đã từng có các hoạ sĩ, đã từng có các nhà điêu khắc, đã từng có các ca sĩ, vũ công. Khác biệt xảy ra vì các tính cá nhân duy nhất.

Bạn đi tới chứng ngộ mà không có bất kì bản ngã nào, không có nhân cách nhưng không phải là không có tính cá nhân. Thực ra, một khi nhân cách và bản ngã không còn đó, chỉ tính cá nhân duy nhất, thuần khiết duy nhất được bỏ lại. Tính duy nhất của bạn được bỏ lại. Cho nên mọi người trở nên chứng ngộ đều đem tới cho chứng ngộ tính cá nhân duy nhất của người đó.

Nếu tính cá nhân duy nhất của người đó đã phát triển năng lực là hoạ sĩ, nếu người đó đã tìm thấy tiềm năng của mình trong việc là hoạ sĩ, thế thì người đó mang đóng góp đó tới chứng ngộ của mình. Sau chứng ngộ người đó sẽ vẽ; tất nhiên tranh của người đó sẽ khác. Trước chứng ngộ và sau chứng ngộ các tranh sẽ khác toàn bộ.

Tôi đã kể cho bạn nhiều lần câu chuyện về năm người mù xem voi. Đó là một trong những câu chuyện cổ đại nhất. Từng người nhìn vào voi từ phía khác nhau, chạm vào voi… ai đó chạm chân, ai đó chạm tai, vân vân và vân vân. Và tất cả họ tranh cãi. Khi người chạm chân voi tuyên bố rằng voi giống như cột trụ bạn thấy trong các đền, người đó không phải là không đúng. Điều người đó trải nghiệm, người đó nói. Nhưng nó có vẻ tuyệt đối không đúng cho bất kì người nào đã thấy toàn thể con voi.

Cái gì đó bản chất phải được hiểu: bất kì khi nào bạn cố làm bộ phận thành toàn thể, bạn sẽ ở trong cùng tình huống mù này. Người mù này đơn giản chạm vào một phần của voi và làm phần đó thành toàn thể con voi. Một cách tự nhiên người đó sẽ đi vào xung đột.

Người chạm vào tai nói, “Điều ông đang nói là tuyệt đối vô nghĩa.” Ở Ấn Độ trước khi điện tới, người giầu thường dùng quạt lớn, và hai người hầu đứng bên cạnh họ liên tục quạt chúng. Quạt đó có vẻ giống tai voi, cho nên người thứ nhất nói, “Điều đó là không thể được. Voi giống như chiếc quạt! Phát biểu của ông là xa xôi và khó chấp nhận tới mức nó thậm chí không đáng xem xét.”

Nhưng người thứ ba đã chạm phần khác nào đó, và cả năm người đang trong thảo luận triết lí sâu sắc. Đây là chuyện cổ năm nghìn năm – nó là về các triết gia. Nó không về người mù và không về voi; nó là về các triết gia. Họ cũng mù, nhưng bất kì cái gì họ loạng choạng vớ được trong cái mù của họ, họ làm thành toàn thể hệ thống, cái chẳng liên quan gì tới cái toàn thể thực. Với tâm trí riêng của họ nó dường như là hoàn hảo, và họ không thể tin được làm sao mọi người đang tranh cãi chống lại hệ thống hoàn hảo.

Trong suốt mọi thế kỉ này các triết gia đã từng tranh cãi và chẳng đi tới kết luận nào. Họ không thể đi tới bất kì kết luận nào vì tiền đề của họ là khác, và trên các tiền đề của họ toàn thể cấu trúc của họ phụ thuộc vào. Năm người mù này vẫn còn chưa đi tới bất kì kết luận nào; họ vẫn còn đang tranh cãi. Và họ sẽ không bao giờ đi tới bất kì kết luận nào. Thế hệ nọ tới thế hệ kia năm người mù này sẽ đi xem voi và sẽ tranh đấu và tranh cãi, nhưng không kết luận nào là có thể.

Người chứng ngộ thấy cái toàn thể. Trước khi người đó chứng ngộ người đó đã biết chỉ các mảnh mẩu và người đó đã vẽ những mảnh mẩu đó. Bây giờ người đó vẽ cái gì đó mà có thể trở thành chỉ dẫn về cái toàn thể. Không ai đã quyết định – sự tồn tại không quyết định mà người này cũng không quyết định. Đó chỉ là việc tính cá nhân mà người đó đã phát triển trước chứng ngộ nay trở thành phương tiện qua đó sự tồn tại vẽ.

Ai đó đã phát triển nghệ thuật soạn nhạc; nhạc cũ của người đó sẽ không là gì khi so sánh với điều người đó đang làm bây giờ, vì nó đã là cái nhìn của người mù. Giờ người đó thấy toàn thể thực tại, và người đó thấy rằng toàn thể thực tại có thể, theo cách nào đó, được phản xạ trong âm nhạc của người đó. Nghe âm nhạc của người đó bạn sẽ được mang từ tâm trí suy nghĩ thường xuyên của bạn tới trạng thái của vô trí.

Và nhà thơ không quyết định vẫn còn là nhà thơ; sự tồn tại cũng không chọn người đó là nhà thơ. Người đó tới với khả năng nói giỏi đó. Cùng điều này là đúng về thầy.

Bạn có thể thấy điều đó. Bạn có thể đi tới đại học và bạn có thể thấy: có nhiều thầy giáo thế, nhưng một số thầy giáo chỉ ở đó vì họ không thể kiếm được bất kì nguồn thu nhập nào khác – và thầy giáo trong đại học không kiếm được mấy. Họ không phải là thầy giáo bẩm sinh. Chính là hoàn cảnh đã buộc họ là thầy giáo; bằng không họ chắc đã thích là người thu thuế, sĩ quan cảnh sát, trong quân đội, trong hải quân, chính khách. Nhưng họ không thể xoay xở được điều họ muốn, và nghề này là sẵn có.

Tôi đã ở trong các đại học và gần chín mươi chín phần trăm các thầy giáo không sẵn lòng ở đó, cho nên việc dạy chỉ là gánh nặng. Tôi đã thấy các thầy giáo đã từng mang vở ghi chép của họ trong ba mươi năm. Ba mươi năm họ đã là thầy giáo ở đại học, và đây là những ghi chép riêng của họ từ khi họ còn đi học! Cùng những sổ ghi chép đó họ đã từng lặp lại hết năm nọ tới năm kia cho các sinh viên… không vui vẻ gì trong việc dạy, không truy hỏi về cái gì đã xảy ra trong ba mươi năm, không quan tâm. Đó không phải là việc của họ; ngẫu nhiên họ đã rơi vào trong nó.

Có lẽ chỉ một phần trăm có thể được nói là thầy giáo bẩm sinh. Họ tận hưởng nó, họ thích thú việc dạy. Họ cố tìm ra nhiều nhất có thể được về bộ môn. Họ là mở với mọi câu hỏi, và nếu họ không biết họ có can đảm nói, “Thầy không biết, nhưng thầy sẽ tìm ra. Các em cũng thử tìm xem sao.” Bạn có thể thấy từ chính cách tiếp cận của họ rằng việc dạy với họ hệt như việc thở; nó là tự phát, họ không mang theo sổ ghi chép. Nó là yêu của họ.

Nếu một phần trăm này bằng cách nào đó được chứng ngộ, họ sẽ là thầy. Không ai sẽ quyết định – sự tồn tại không mà bản thân thầy cũng không. Ông ấy có tính cá nhân nào đó mà ông ấy tặng cho sự tồn tại. Nếu tính cá nhân của ông ấy có tiềm năng, của việc nói giỏi, của việc là thầy, sự tồn tại sẽ dùng ông ấy như thầy.

Bạn không biết hàng nghìn người chứng ngộ đã sống và đã chết vì họ không có tài năng đặc biệt để cho họ trở thành thấy được cho người thường. Họ có thể đã có cái gì đó duy nhất; chẳng hạn họ có thể đã có phẩm chất mênh mông của việc là im lặng, nhưng điều đó sẽ không được để ý gì mấy.

Tôi biết một người chứng ngộ ở Bombay khi tôi đã ở Bombay và tài năng duy nhất của ông ấy là làm tượng đẹp từ cát. Tôi chưa bao giờ thấy những bức tượng đẹp thế. Cả ngày ông ấy ấy sẽ làm chúng trên bãi biển, và hàng nghìn người sẽ xem chúng và sẽ bị sững sờ. Và họ đã thấy tượng của Phật Gautam, tượng của Krishna, tượng của Mahavira, nhưng không có so sánh. Và ông ấy đã không làm việc trên đá cẩm thạch, chỉ với cát biển. Mọi người sẽ ném những tờ ru pi; ông ấy đã không bị bận tâm chút nào. Tôi đã thấy những người khác lấy các tờ tiền này; ông ấy không quan tâm về cả điều đó nữa. Ông ấy bị cuốn hút thế trong việc làm ra những bức tượng đó. Nhưng những bức tượng đó không kéo dài lâu. Chỉ một con sóng đại dương kéo tới và Phật bị mất đi.

Trước chứng ngộ ông ấy đã kiếm sống theo cách đó, đi từ thành phố này sang thành phố khác và làm các tượng cát. Và chúng đẹp tới mức không thể nào không cho ông ấy cái gì đó. Ông ấy kiếm được nhiều, đủ cho một người.

Giờ ông ấy đã trở nên chứng ngộ nhưng ông ấy đã chỉ có một tài năng: làm tượng cát. Tất nhiên ông ấy sẽ không làm tượng cát mà không chỉ dẫn tới chứng ngộ – nhưng đó là việc cúng dường duy nhất mà ông ấy có thể dâng. Sự tồn tại sẽ dùng điều đó. Các tượng của ông ấy có nhiều tính thiền hơn. Chỉ ngồi bên cạnh các tượng cát của ông ấy bạn có thể cảm thấy rằng ông ấy đã cho sự cân xứng cho tượng, hình dáng nào đó, mặt nào đó mà tạo ra cái gì đó bên trong bạn.

Tôi đã hỏi ông ấy, “Tại sao ông liên tục làm Phật Gautam và Mahavira? Ông có thể kiếm được nhiều hơn – vì nước này không phải là nước Phật giáo và người Jaina có rất ít. Ông có thể làm Rama, ông có thể làm Krishna.”

Nhưng ông ấy nói, “Họ sẽ không phục vụ cho chủ định; họ không trỏ tới trăng. Họ sẽ là những tượng đẹp – tôi đã làm tất cả những tượng đó trước đây – nhưng giờ tôi chỉ có thể làm những tượng mà là việc dạy, cho dù nó sẽ là vô hình với hàng triệu người, gần như tất cả mọi người.”

Bất kì khi nào tôi tới Bombay… Khi tôi tới thường xuyên ông ấy đã chết, nhưng trước đó bất kì khi nào tôi tới tôi đều làm thành vấn đề là đi tới thăm ông ấy. Ông ấy làm việc trên bãi biển Juhu vào lúc đó. Cả ngày ở đó là im lặng. Mọi người chỉ tới vào buổi tối và đến lúc đó tượng của ông ấy đã xong rồi. Cả ngày, không náo động.

Tôi bảo ông ấy, “Ông có thể làm tượng. Sao ông không làm trên đá cẩm thạch? Chúng sẽ còn lại mãi mãi.”

Ông ấy nói, “Không cái gì là thường hằng” – đó là trích dẫn của Phật – “và những tượng này đại diện cho Phật Gautam tốt hơn bất kì tượng đá cẩm thạch nào. Tượng đá cẩm thạch có sự thường hằng nào đó còn những tượng này là nhất thời: chỉ cơn gió mạnh và chúng mất đi, một con sóng đại dương và chúng mất đi. Đứa trẻ chạy tới luýnh quýnh va vào tượng, và nó mất đi.”

Tôi nói, “Ông không cảm thấy nặng nề khi ông đã làm việc cả ngày, và bức tượng chỉ vừa mới hoàn thành, và thế rồi cái gì đó xảy ra và ông việc của cả ngày mất đi sao?”

Ông ấy nói, “Không. Mọi thứ của sự tồn tại đều là nhất thời; không có vấn đề về thất vọng. Tôi thích thú làm ra nó, và nếu một con sóng đại dương thích phá nó đi, thế thì hai người cùng thích thú! Tôi thích thú làm nó, sóng thích thú phá nó. Cho nên trong sự tồn tại đã từng có phẩm chất kép của niềm vui – sao tôi phải bị thất vọng? Sóng có nhiều sức mạnh trên cát như tôi có; có lẽ nó có nhiều hơn.”

Khi tôi nói với ông ấy, ông ấy nói, “Ông có hơi chút kì lạ vì không ai nói chuyện với tôi. Mọi người đơn giản ném các đồng ru pi. Họ thích thú bức tượng, nhưng không ai thích thú tôi. Nhưng khi ông tới tôi cảm thấy phúc lạc thế rằng có ai đó thích thú tôi, người không chỉ quan tâm tới tượng mà quan tâm tới nghĩa bên trong của nó, với việc tại sao tôi làm nó. Tôi không thể làm được bất kì cái gì khác. Toàn thể đời tôi, tôi đã từng làm ra nhiều tượng; đó là nghệ thuật duy nhất tôi biết. Và giờ tôi được buông xuôi theo sự tồn tại; giờ sự tồn tại có thể dùng tôi.”

Những người này sẽ vẫn còn không được nhận ra. Một vũ công có thể là một phật, một ca sĩ có thể là một phật, nhưng những người này sẽ không được nhận ra, bởi lẽ đơn giản rằng cách làm mọi sự của họ không thể trở thành việc dạy. Nó không thể giúp cho mọi người thực sự bước ra khỏi giấc ngủ của họ. Nhưng những người này đang làm hết sức mình; bất kì cái gì họ có thể làm, họ đang làm.

Rất ít người trở thành thầy vì thầy là những người đã thu được trong nhiều kiếp sống khả năng nói giỏi nào đó, hiểu biết sâu sắc nào đó trong lời, ngôn ngữ, âm thanh của lời, sự đối xứng và tính thơ ca của ngôn ngữ. Đó là điều khác toàn bộ. Vấn đề không phải là ngôn ngữ hay văn phạm, nó là vấn đề nhiều phần về tìm ra trong ngôn ngữ bình thường âm nhạc phi thường nào đó, tạo ra phẩm chất của thơ ca vĩ đại trong văn xuôi bình thường. Họ biết cách chơi với lời để cho bạn có thể được giúp đi ra ngoài lời.

Không phải là họ đã chọn là thầy, và không phải là sự tồn tại đã chọn họ là thầy. Đó chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên: trước chứng ngộ họ đã là những thầy giáo lớn và họ đã trở thành thầy vì chứng ngộ. Bây giờ họ có thể đổi việc dạy của họ thành việc làm thầy – và chắc chắn đó là phần khó nhất.

Những người vẫn còn im lặng và biến mất một cách an bình mà không ai biết tới họ có cách thức dễ dàng, nhưng người như tôi không thể có cách thức dễ dàng. Thật không dễ dàng khi tôi đã là thầy giáo – làm sao có thể là dễ dàng khi tôi là thầy? Điều đó sẽ là khó.

Và sáng suốt của bạn càng lớn, nguy hiểm là càng lớn, vì kẻ thù sợ hơn… và với kẻ thù tôi ngụ ý mọi quyền lợi được đầu tư. Họ sẽ làm mọi thứ để ngăn cản tôi, để là què tôi, để tiêu diệt tôi. Nhưng điều đó không thành vấn đề vì khi có liên quan tới tôi không có chết.

Họ không thể làm hại tôi được. Họ có thể nghĩ họ đang làm hại tôi; đó là ảo tưởng của họ. Bằng việc tạo ra mọi phiền phức họ đang nhấn mạnh vào mọi lời tôi đang nói. Hoang tưởng của họ đủ là bằng chứng: họ có đa số, nhưng họ không có chân lí. Tôi không có đa số, nhưng tôi có chân lí. Và chân lí là nặng hơn nhiều so với đa số.

Họ có thể giết tôi, nhưng họ không thể giết được chân lí.

Thực ra bằng việc giết tôi họ sẽ làm cho chân lí của tôi có ý nghĩa nhiều hơn. Ngày càng nhiều người sẽ cảm thấy đồng cảm với nó. Ngày càng nhiều người sẽ bắt đầu nhìn… phải đã có cái gì đó. Bằng không tại sao nhiều sức mạnh thế trên khắp thế giới, những sức mạnh khác lẫn nhau – cộng sản Nga, tư bản Mĩ, chính phủ xã hội nào đó, các tôn giáo khác nhau, họ bất đồng về mọi thứ – tất cả họ đều đồng ý rằng tôi là nguy hiểm?

Dường như là bất kì cái gì tôi đang nói đang chặt chính rễ của họ. Cho nên tôi không lo nghĩ về điều đó. Tôi chắc đã lo nghĩ nếu họ đã có khả năng bỏ qua tôi, nhưng họ đã không có khả năng bỏ qua tôi. Và bởi vì họ không thể bỏ qua tôi được, họ đã chấp nhận sâu bên dưới về chân lí của điều tôi đang nói. Và họ sẽ dần dần đi theo nó; không thành vấn đề liệu họ có nhắc tới tên tôi hay không.

Bạn có thể thấy điều đó đã xảy ra: với bất kì thận trọng nào chúng ta đã làm chống lại AIDS trong tâm xã ở Mĩ… Không ai có đủ tinh tế, đủ văn hoá, để khen ngợi nó vì chúng ta đã là người tiên phong. Không ở đâu trên thế giới này những thận trọng đó đã được tiến hành. Bây giờ họ đã phá huỷ tâm xã rồi. Và giờ trên khắp Mĩ ở các bang khác nhau họ đang thông qua luật mà đích xác là cùng điều như điều chúng ta đã cố làm trong tâm xã nhỏ bé của chúng ta.

Không ở đâu tên của tôi sẽ được nhắc tới, nhưng điều đó không phải là vấn đề chút nào. Họ cũng đã bắt đầu lo nghĩ ở các nước khác, và họ sẽ phải lấy cùng biện pháp. Ở Pháp họ đang thông qua cùng các biện pháp ở nghị viện nhưng khi chúng ta đã làm nó, không một tiếng nói nào trên khắp thế giới nói, “Chúng tôi sát cánh cùng ông.” Và tôi nói với bạn rằng toàn thế giới sẽ đi theo cùng biện pháp – họ sẽ phải theo. Và cùng điều này sẽ xảy ra về các việc khác.

Bất kì cái gì tôi đã từng nói tới – triệt sản, kiểm soát sinh – mọi nước sẽ phải làm điều đó. Họ sẽ không thừa nhận điều đó. Họ sẽ kết án tôi về điều đó. Những người lãnh đạo của họ và người lãnh đạo tôn giáo của họ sẽ kết án tôi, nhưng họ biết rằng đó là cách duy nhất: dân số phải được cắt giảm. Không thành vấn đề liệu họ có nói điều đó không.

Chúng ta đã khởi đầu các chương trình nào đó. Nếu các chương trình được tuân theo, thế là đủ. Và về những điều khác sẽ cần chút thời gian. Bất kì cái gì tôi đang nói về phân tâm học… Các nhà phân tâm trên khắp thế giới cảm thấy cái gì đó bị thiếu, nhưng họ không biết cái gì bị thiếu. Tôi là người duy nhất nói đích xác cái bị thiếu. Sớm hay muộn họ sẽ phải thừa nhận điều đó; không có cách nào né tránh nó.

Chân lí có cách riêng của nó để phổ biến.

Từ bên ngoài việc của thầy có vẻ rất khó vì thầy đang tranh đấu chống lại bóng tối đại dương; nhiệm vụ này dường như gần như không thể được. Nhưng từ bên trong con người riêng của thầy, không cái gì là không thể được. Tối không có sự tồn tại. Chúng ta chỉ phải mang ngày càng nhiều người ra sáng và tối sẽ tự nó biến mất. Nó thậm chí không thể kháng cự.

 

Từ “Con đường của nhà huyền bí:, T.1, Ch.14 Chỉ bằng việc mở hội