Kĩ thuật nhận biết về vật chất, năng lượng, tâm thức

Tâm thức này tồn tại như từng con người, và không gì khác tồn tại.

 

Các nhà khoa học hay nói trong quá khứ rằng chỉ vật chất tồn tại, không cái gì khác. Những hệ thống triết lí lớn đã nảy sinh dựa trên quan niệm rằng chỉ vật chất tồn tại. Nhưng ngay cả những người đã tin rằng vật chất tồn tại đã phải nhân nhượng rằng có cái gì đó như tâm thức. Thế thì nó là gì? Họ nói rằng tâm thức chỉ là hiệu quả phụ, chỉ là sản phẩm phụ của vật chất. Nó không là gì ngoài vật chất trá hình, cái gì đó rất tinh tế những vẫn là vật chất. Nhưng nửa thế kỉ này đã chứng kiến phép màu rất lớn xảy ra.

Các nhà khoa học cố và cố tìm ra vật chất là gì, nhưng họ càng cố, họ càng đi tới nhận ra rằng chẳng có gì như vật chất. Vật chất đã được phân tích và người ta thấy rằng nó đã biến mất. Nietzsche đã nói mới một trăm năm trước, “Thượng đế chết.” Với Thượng đế chết không thể có tâm thức vì Thượng đế ngụ ý tính toàn bộ của tâm thức. Nhưng trong vòng một trăm năm vật chất chết – và nó chết không phải bởi vì người tôn giáo tin nó vậy mà bởi vì các nhà khoa học đã đi tới một kết luận dứt khoát rằng vật chất chỉ là dáng vẻ. Nó dường như là nó vậy vì chúng ta không thể thấy được rất sâu. Nếu chúng ta có thể thấy sâu nó biến mất, và thế thì năng lượng còn lại.

Hiện tượng năng lượng này, lực năng lượng phi vật chất này, đã được các nhà huyền bí biết tới từ lâu trước đây. Trong Vedas, trong Kinh Thánh, trong Koran, trong Upanishads – trên khắp thế giới các nhà huyền bí đã xuyên thấu vào trong sự tồn tại và bao giờ cũng kết luận rằng vật chất chỉ là dáng vẻ; sâu bên dưới không có vật chất, chỉ có năng lượng. Với điều này khoa học bây giờ đồng ý. Và nhà huyền bí đã nói một điều nữa mà khoa học còn chưa đồng ý – nhưng với điều đó nó sẽ phải đồng ý một ngày nào đó! Nhà huyền bí đã đi tới kết luận khác nữa. Họ nói rằng khi bạn xuyên thấu sâu vào trong năng lượng, năng lượng cũng biến mất và chỉ tâm thức còn lại.

Cho nên đây là ba tầng. Vật chất là tầng thứ nhất, bề mặt. Nếu bạn xuyên thấu bề mặt thế thì tầng thứ hai trở thành rõ ràng: bạn có thể cảm nhận tầng thứ hai là năng lượng. Thế rồi nếu bạn xuyên thấu năng lượng, tầng thứ ba trở nên được soi sáng – tầng thứ ba đó là tâm thức. Lúc ban đầu, khoa học nói rằng các nhà huyền bí chỉ mơ, vì khoa học chỉ thấy vật chất và không cái gì khác. Thế rồi khoa học cố xuyên thấu, và tầng thứ hai của nhà huyền bí được làm lộ ra: vật chất chỉ là dáng vẻ – sâu bên dưới nó không là gì ngoài năng lượng. Và tuyên bố khác của nhà huyền bí là: xuyên thấu thêm nữa vào trong năng lượng và năng lượng cũng biến mất, thế thì còn lại chỉ tâm thức. Tâm thức đó là Thượng đế. Đó là cốt lõi sâu nhất.

Nếu bạn xuyên thấu vào trong thân thể bạn, ba tầng này có đó. Ngay trên bề mặt là thân thể bạn. Thân thể có vẻ vật chất, nhưng sâu bên dưới có dòng chảy của sự sống, prana, sinh lực. Không có sinh lực đó thân thể bạn chỉ là cái xác. Nó là sống động, với cái gì đó chảy trong nó. ‘Cái gì đó’ chảy đó là năng lượng. Nhưng sâu hơn, vẫn sâu hơn, bạn là nhận biết, bạn có thể chứng kiến. Bạn có thể chứng kiến cả thân thể bạn và sinh lực của bạn. Việc chứng kiến đó là tâm thức của bạn.

Mọi sự tồn tại đều có ba tầng. Tầng sâu nhất là tâm thức chứng kiến. Ở giữa là sinh lực và ngay trên bề mặt là vật chất, thân thể vật chất.

Kĩ thuật này nói, Tâm thức này tồn tại như từng con người, và không gì khác tồn tại. Bạn là gì? Bạn là ai? Nếu bạn nhắm mắt lại và cố tìm ra bạn là ai, chung cuộc bạn nhất định đi tới kết luận rằng bạn là tâm thức. Mọi thứ khác có thể thuộc về bạn, nhưng bạn không là cái đó. Thân thể thuộc về bạn, nhưng bạn có thể nhận biết về thân thể – và cái mà là nhận biết về thân thể trở thành tách rời. Thân thể trở thành đối thể của tri thức và bạn trở thành chủ thể. Bạn có thể biết thân thể bạn. Không chỉ bạn có thể biết, bạn có thể thao túng thân thể bạn, bạn có thể làm nó hoạt động hay làm nó thụ động. Bạn là tách rời. Bạn có thể làm cái gì đó với thân thể bạn.

Và không chỉ bạn không là thân thể của bạn, bạn không là tâm trí của bạn nữa. Bạn có thể trở nên nhận biết về tâm trí của bạn nữa. Nếu ý nghĩ di chuyển, bạn có thể thấy chúng, và bạn có thể làm cái gì đó với chúng: bạn có thể làm chúng biến mất hoàn toàn, bạn có thể trở thành vô ý nghĩ. Hay, bạn có thể tập trung tâm thức của bạn vào một ý nghĩ và không cho phép nó di chuyển khỏi đó. Bạn có thể hội tụ bản thân bạn vào nó và làm nó vẫn còn ở đó. Hay, bạn có thể cho phép dòng chảy ý nghĩ tựa sông. Bạn có thể làm cái gì đó với ý nghĩ của bạn. Bạn thậm chí có thể làm tan biến chúng hoàn toàn cho tới khi không có ý nghĩ – nhưng bạn vẫn hiện hữu. Bạn sẽ biết rằng không có ý nghĩ, rằng chân không đã đi vào hiện hữu; nhưng bạn sẽ có đó, chứng kiến chân không đó.

Điều duy nhất bạn không thể tách rời khỏi bản thân bạn là năng lượng chứng kiến. Điều đó ngụ ý bạn là cái đó. Bạn không thể tách rời khỏi nó. Bạn có thể tách rời bản thân bạn khỏi mọi thứ khác: bạn có thể biết rằng bạn không là thân thể, không là tâm trí, nhưng bạn không thể biết rằng bạn không là việc chứng kiến của bạn vì bất kì cái gì bạn làm đều sẽ là việc chứng kiến. Bạn không thể tách rời bản thân bạn khỏi việc chứng kiến. Việc chứng kiến đó là tâm thức. Và chừng nào bạn chưa đi tới điểm từ đó việc tách rời trở thành có thể, bạn đã không đi tới bản thân bạn.

Cho nên có những phương pháp qua đó người tìm kiếm liên tục loại bỏ dần. Người đó liên tục loại bỏ – đầu tiên là thân thể, thế rồi tâm trí, và thế rồi người đó đi tới điểm mà không cái gì có thể bị loại bỏ. Trong Upanishads họ nói, neti, neti. Đây là phương pháp sâu: “Cái này không có, cái kia không có.” Cho nên người tìm kiếm liên tục biết, “Cái này không có, cái này không phải là tôi, cái này không phải là mình.” Người đó cứ liên tục làm thế mãi tới chung cuộc người đó đi tới điểm mà người đó không thể nói “Cái này không là tôi.” Chỉ bản thân việc chứng kiến còn lại. Tâm thức thuần khiết còn lại. Tâm thức thuần khiết này tồn tại như từng người.

Bất kì cái gì có trong sự tồn tại chỉ là hiện tượng của tâm thức này, chỉ là sóng, chỉ là việc kết tinh của tâm thức này – và không cái gì khác tồn tại. Nhưng điều này phải được cảm thấy. Phân tích có thể giúp ích, việc hiểu về trí tuệ có thể giúp ích, nhưng nó phải được cảm thấy rằng không cái gì khác tồn tại, chỉ mỗi tâm thức tồn tại. Thế rồi cư xử dường như duy nhất tâm thức tồn tại.

Tôi đã nghe nói về Lâm Tế, một Thiền sư. Một hôm ông ấy đang ngồi trong lều, ai đó tới gặp ông ấy. Người này tới mà đang giận. Người đó đã đánh nhau với vợ hay với ông chủ hay cái gì đó – nhưng người đó giận dữ. Người đó xô cửa trong giận dữ, người nó ném giầy trong giận dữ và thế rồi người đó vào, rất cung kính, và cúi lạy Lâm Tế. Lâm Tế nói, “Trước hết ra xin lỗi cửa và giầy đi.” Người này phải đã nhìn vào Lâm Tế một cách rất kì quái. Đã có những người khác cũng ngồi đó và họ bắt đầu cười. Lâm Tế nói, “Thôi!” và thế rồi nói với người này, “Nếu ông không làm điều đó thì về đi. Ta sẽ chẳng có gì làm với ông.” Người này nói, “Hỏi xin lỗi giầy và cửa thật là dở hơi.” Lâm Tế nói, “Chẳng phải là dở hơi khi ông diễn đạt giận của ông đó sao. Bây giờ nó có là dở hơi không? Mọi thứ có tâm thức. Cho nên ông đi đi, và chừng nào cửa chưa tha thứ cho ông, ta sẽ không cho phép ông vào.”

Người này cảm thấy vụng về nhưng ông ta phải đi ra. Về sau bản thân ông ta trở thành sư và trở nên chứng ngộ. Khi ông ta trở nên chứng ngộ, ông ta kể lại toàn thể giai thoại này và ông ta nói, “Khi ta đứng trước cửa, hỏi xin tha thứ, ta đã cảm thấy vụng về, ngu xuẩn. Nhưng thế rồi ta nghĩ rằng Lâm Tế nói vậy, phải có cái gì đó trong nó chứ. Ta đã tin cậy Lâm Tế, cho nên ta nghĩ rằng ngay cả làm việc đó cũng là ngu xuẩn. Lúc ban đầu bất kì cái gì ta nói với cửa đều chỉ là bề ngoài, giả tạo; nhưng dần dần ta bắt đầu được ấm lòng lại. Và Lâm Tế đang đợi và ông ấy đã nói rằng ông ấy sẽ theo dõi. Nếu cửa tha thứ cho ta, chỉ thế ta có thể bước vào; bằng không ta phải ở đó cho tới khi ta đã thuyết phục được cửa và giầy tha thứ cho ta. Dần dần ta trở nên ấm lòng. Ta quên mất rằng nhiều người đang nhìn. Ta quên mất về Lâm Tế – và thế rồi mối quan tâm trở thành chân thành và thực. Ta đã bắt đầu cảm thấy cửa và giầy đã thay đổi tâm trạng của chúng. Và khoảnh khắc ta nhận ra rằng cửa và giầy đã thay đổi và chúng cảm thấy hài lòng, Lâm Tế lập tức nói rằng ta có thể vào. Ta đã được tha thứ.”

Sự vụ này đã trở thành hiện tượng biến đổi trong đời ông ấy vì lần đầu tiên ông ấy trở nên nhận biết rằng mọi thứ thực sự là sự kết tinh của tâm thức. Nếu bạn không thể thấy được nó, đó là vì bạn mù. Nếu bạn không thể nghe được nó, đó là vì bạn điếc. Không có cái gì thành vấn đề với các thứ quanh bạn. Mọi thứ là tâm thức được cô đặc lại. Vấn đề là với bạn – bạn không mở và không nhạy cảm.

Kĩ thuật này nói, Tâm thức này tồn tại như từng con người, và không gì khác tồn tại. Sống với khái niệm này đi. Là nhạy cảm với điều này và bất kì chỗ nào bạn di chuyển, di chuyển cùng với tâm trí này và tâm này – rằng mọi thứ đều là tâm thức và không cái gì khác tồn tại. Sớm hay muộn, thế giới sẽ thay đổi mặt của nó. Sớm hay muộn, các vật biến mất và người bắt đầu xuất hiện ở mọi nơi. Sớm hay muộn, toàn thể thế giới sẽ đột nhiên được chói sáng và bạn sẽ biết rằng bạn đã sống trong thế giới của những vật chết chỉ bởi vì sự không nhạy cảm của bạn. Bằng không mọi thứ là sống động – không chỉ sống động, mọi thứ là tâm thức.

Mọi thứ sâu bên dưới không là gì ngoài tâm thức. Nhưng nếu bạn để nó như một lí thuyết, nếu bạn tin nó như một lí thuyết, thế thì không cái gì sẽ xảy ra. Bạn sẽ phải làm nó thành cách sống, phong cách sống – cư xử dường như mọi thứ là tâm thức. Lúc ban đầu nó sẽ là ‘dường như’, và bạn sẽ cảm thấy ngu xuẩn, nhưng nếu bạn có thể kiên trì trong cái ngu xuẩn của bạn, và nếu bạn có thể dám là ngu xuẩn, thế giới sẽ sớm bắt đầu khải lộ những điều huyền bí của nó.

Khoa học không phải là phương pháp luận duy nhất được dùng để đi vào điều huyền bí của sự tồn tại. Thực sự, nó là phương pháp luận thô nhất, cái chậm nhất. Nhà huyền bí có thể đi vào sự tồn tại trong một khoảnh khắc. Khoa học sẽ mất hàng triệu năm để xuyên thấu chừng nấy. Upanishad nói rằng thế giới là ảo vọng, rằng vật chất là ảo vọng, nhưng chỉ sau năm nghìn năm khoa học mới có thể nói rằng vật chất là ảo vọng. Upanishad nói rằng sâu bên dưới năng lượng là ý thức – khoa học sẽ mất thêm năm nghìn năm nữa. Huyền môn là cú nhảy; khoa học là sự vận động rất chậm chạp. Trí tuệ không thể nhảy được; nó phải tranh cãi – tranh cãi mọi sự kiện, chứng minh, bác bỏ, thực nghiệm. Nhưng tim có thể nhảy ngay lập tức.

Nhớ, với trí tuệ quá trình là cần thiết, thế thì kết luận tới – quá trình trước, thế rồi tới kết luận – logic. Với tim, kết luận tới trước, thế rồi quá trình tới. Nó chính là việc đảo ngược. Đó là lí do tại sao các nhà huyền bí không thể chứng minh được bất kì cái gì. Họ có kết luận, nhưng họ không có quá trình.

Bạn có thể không nhận biết, bạn có thể đã không để ý, rằng các nhà huyền bí đơn giản nói về các kết luận. Nếu bạn đọc Upanishads bạn sẽ thấy chỉ toàn kết luận. Khi lần đầu tiên chúng được dịch sang ngôn ngữ phương Tây, các triết gia phương Tây không thế thấy ra được vấn đề – vì không có luận cứ. Làm sao bạn đạt tới kết luận này? Bằng chứng là gì? Dựa trên tiền đề nào mà bạn tuyên bố, “Có Brahma”? Upanishad không nói bất kì cái gì, chúng đơn giản đi tới kết luận. Tim đạt tới kết luận ngay lập tức. Và khi kết luận được đạt tới, bạn có thể tạo ra quá trình. Đó là nghĩa của thượng đế học.

Các nhà huyền bí đạt tới kết luận và các nhà thượng đế học tạo ra quá trình. Jesus đã đạt tới kết luận và thế rồi các nhà thượng đế học – Thánh Augustine, Thomas Aquinas – họ đã tạo ra quá trình. Cái đó là phụ. Kết luận đã được đạt tới, bây giờ bạn phải tìm ra bằng chứng. Bằng chứng là trong cuộc đời của nhà huyền bí. Ông ấy không thể tranh cãi về nó. Bản thân ông ấy là bằng chứng – nếu bạn có thể nhìn thấy nó. Nếu bạn không thể thấy được, thế thì không có bằng chứng. Thế thì tôn giáo là ngớ ngẩn.

Đừng làm những kĩ thuật này thành lí thuyết. Chúng không là vậy. Chúng nhảy vào trong trải nghiệm, nhảy vào trong kết luận.

 

Từ “Vigyan Bhairav Tantra”, T.4, Ch.77