Gạt bỏ mọi niềm tin – tảng đá móng của tâm trí

Con người bị trói vào trong xiềng xích của ý nghĩ như tù nhân. Trong nhà tù các ý nghĩ này, loại đá nào đã được dùng làm nền móng? Trong buổi chiều chúng ta đã nói về một trong những tảng đá này. Đêm nay chúng ta sẽ nói về tảng đá thứ hai nhưng là tảng đá quan trọng tương đương. Nếu hai tảng đá nền móng này được loại bỏ, sai lầm về suy nghĩ rằng tri thức được học là tri thức thực sẽ được nhận ra, và thế thì con người có thể rất dễ dàng vươn lên trên nhà tù ý nghĩ của mình.

Tảng đá thứ hai là gì? Tảng đá nền móng kia là gì mà nhà tù ý nghĩ trong tâm trí con người đã được dựng lên, mà trên đó mạng các ý nghĩ đã được dệt ra? Có lẽ bạn không biết. Có lẽ bạn không có ý tưởng làm sao chúng ta bị đầy ắp những ý nghĩ mâu thuẫn thế.

Tình huống của chúng ta giống như chiếc xe bò kéo bị các con bò kéo từ tứ phía. Các con bò đực bị buộc phải đi để có thể đạt tới các đích đến khác nhau. Chiếc xe bò kéo đang trong nguy hiểm. Kết cấu của nó trở nên lỏng lẻo. Các con bò đang kéo nó từ mọi phía theo các hướng khác nhau – nó có thể đạt tới bất kì chỗ nào không? Nó có thể đạt tới bất kì đích đến nào không? Chỉ có thể có một đích đến cho nó, chỉ một định mệnh – nó sẽ bị vỡ ra thành từng phần, bị phá huỷ. Với các con bò kéo nó bị rời ra, chạy đi theo các hướng đối lập với mọi mảnh của nó, không cái gì khác ngoài việc phá huỷ có thể xảy ra. Chiếc xe bò kéo không thể tới được bất kì chỗ nào.

Xung đột bên trong giữa các ý nghĩ trong tâm trí chúng ta đang giết chết chúng ta. Mọi ý nghĩ của chúng ta đều không liên quan và mâu thuẫn – trong đối lập lẫn nhau. Mọi con bò ý nghĩ của chúng ta đang kéo tâm trí chúng ta theo các hướng khác nhau và chúng ta bị rối loạn và khổ sở ở giữa. Chúng ta chẳng có ý tưởng làm sao mâu thuẫn này, xung đột này, đã tới để hiện hữu ở đó bên trong chúng ta.

Hàng nghìn kiểu ý nghĩ này tồn tại bên trong chúng ta  và tất cả chúng đang kéo chúng ta theo các hướng khác nhau đồng thời. Chúng ta đã trở nên rất rối loạn – điều đó là hiển nhiên. Đây là lí do tại sao con người dường như là tuyệt đối điên. Người ta có thể là gì khác được? Điên là hậu quả hiển nhiên. Số vô hạn những ý nghĩ mâu thuẫn từ hàng nghìn và hàng nghìn năm đã tụ tập trong tâm trí của một người. Hàng nghìn thế hệ, hàng nghìn thế kỉ, đang sống trong một người đồng thời. Ý nghĩ năm nghìn năm tuổi và ý nghĩ cực kì hiện đại từ thời hiện tại tồn tại đồng thời bên trong người đó – và không thể có so sánh mà cũng không có hài hoà nào giữa hai ý nghĩ này.

Ý nghĩ tới từ hàng nghìn hướng khác nhau đã tụ tập bên trong một người. Ý tưởng về hàng nghìn tirthankara và digambara, avatara và guru đang nằm bên trong anh ta, và tất cả họ đã làm một điều duy nhất. Mặc dầu họ đã không đồng ý về bất kì cái gì, mọi tôn giáo, mọi thầy giáo, mọi người thuyết giảng trên thế giới bao giờ cũng đồng ý về một chiến lược: đó là bảo mọi người tin vào điều họ đang nói. Mọi người trong họ đều nói, “Tin vào điều chúng tôi đang nói đi.” Họ không đồng ý về mọi thứ khác. Người Hindu nói cái gì đó, người Mô ha mét giáo nói cái gì đó, người Jaina nói cái gì đó, người Ki tô giáo nói cái gì đó khác – nhưng trên một điểm này tất cả họ đều đồng ý, “Tin vào điều chúng tôi nói.” Tất cả họ đều nói những điều mâu thuẫn và tất cả những lời nói mâu thuẫn đó rơi vào sự sống của con người, và tất cả họ đều hét lên để anh ta tin vào điều họ đang nói. Con người là nghèo và yếu, con người tin vào bất kì cái gì những người này nói. Tất cả họ cười vào lời của nhau, nhưng không ai cười vào cái ngu xuẩn riêng của họ.

Người Ki tô giáo nói rằng Jesus được sinh ra từ cô gái đồng trinh và người mà không chấp nhận điều này sẽ đi xuống địa ngục. Người nghe đáng thương cảm thấy sợ. Nếu người đó không chấp nhận quan điểm này, anh ta sẽ xuống địa ngục! Thế là anh ta chấp nhận rằng điều những người này nói là đúng. Có thành vấn đề gì liệu cô gái đồng trinh cho sinh ra Jesus hay không? Không cần đi xuống địa ngục về quan điểm như vậy.

Những người còn lại của thế giới cười vào ý tưởng này của người Ki tô giáo. Người Mô ha mét giáo, ngườiJaina, người Hindu cười vào cái ngu xuẩn này. Làm sao đứa trẻ có thể được sinh ra từ cô gái đồng trinh? Điều đó là tuyệt đối ngớ ngẩn.

Nhưng người Mô ha mét giáo nói rằng trong khi còn trong thân thể, Mohammed đã đi lên cõi trời khi cưỡi trên con ngựa cái. Người Ki tô giáo, người Hindu, người Jaina cười vào điều này – đây là loại ngu xuẩn gì vậy! Điều thứ nhất là ở chỗ ngựa cái không thể lên cõi trời được. Nếu như nó mà là ngựa đực, nó có thể có khả năng đi lên cõi trời. Đàn ông có thể lên cõi trời nhưng không có điều khoản nào cho đàn bà lên cõi trời – cho nên ngựa cái không thể lên cõi trời được. Nếu nó mà là ngựa đực thì ý tưởng này có thể đã không bị phản đối, nó có thể đã là đúng. Và thứ hai, làm sao ai đó có thể lên cõi trời trong khi còn trong thân thể? Thân thể phải bị bỏ lại ở đây, thân thể là thứ của đất. Mohammed không thể lên cõi trời trong thân thể ông ấy được. Mọi người cười vào ý tưởng này. Người Ki tô giáo, người Jaina và người Hindu tất cả đều cười, nhưng người Mô ha mét giáo nói, “Tin điều đó đi! Nếu ông không tin điều đó thế thì ông sẽ xuống địa ngục. Ông sẽ bị buộc thối rữa ở địa ngục, ông sẽ khổ ở địa ngục. Ông sẽ phải chấp nhận điều này. Nếu ông không chấp nhận nó, nếu ông không đồng ý với lời của Mohammed, thế thì biết cho rõ rằng ông sẽ lâm vào khó khăn lớn – vì chỉ có một thượng đế trên thế giới và Mohammed là nhà tiên tri của ngài.”

Con người ở dưới đe doạ phải tin, cho nên con người chấp nhận rằng điều người đó được nói cho có thể là đúng. Người Jaina cười người Mô ha mét giáo và người Ki tô giáo, nhưng họ nói rằng Mahavira được thụ thai trong bụng người đàn bà brahmin. Làm sao một tirthankara của người Jaina có thể được sinh ra trong gia đình brahmin? Đẳng cấp thực và cao nhất là kshatriya, cho nên các tirthankara bao giờ cũng được sinh trong gia đình kshatriya. Họ không thể được sinh trong nhà brahmin. Brahmin là người ăn xin cho nên làm sao tirthankaras có thể được sinh trong nhà của họ? Mahavira đã được thụ thai trong tử cung người đàn bà brahmin nhưng khi các thần thấy rằng điều này sẽ là sai lầm lớn – “Làm sao một tirthankara có thể được sinh ra trong gia đình brahmin?” – họ lập tức lấy cái thai này ra và đặt nó vào tử cung của người đàn bà kshatriya, và họ lấy cái thai nữ từ tử cung của người đàn bà kshatriya và đặt nó vào trong tử cung của người đàn bà brahmin.

Mọi người trên khắp thế giới cười vào mọi điều này – chúng rất nực cười. Trước hết, điều các thần đã làm với việc đổi thai trong tử cung của ai đó – làm sao điều này có thể xảy ra được? Toàn thế giới cười, nhưng người Jaina trở nên giận. Họ nói, “Các vị có thể cười điều này nhưng các vị không biết tirthankara của chúng tôi đã nói và bất kì cái gì đã được nói bởi các tirthankara của chúng tôi là tuyệt đối đúng. Bất kì ai không tin vào điều này sẽ chịu đoạ địa ngục. Nếu các vị không tin chúng tôi không quan tâm, các vị có thể chịu khổ!”

Con người được yêu cầu tin vào nhiều thứ bởi nhiều người. Đã có thời mà con người đã không biết về niềm tin của mọi người. Mọi người đã sống trong nhóm riêng của họ. Họ chỉ biết những thứ bên trong nhóm riêng của họ cho nên đã không có nhiều lẫn lộn thế. Bây giờ thế giới đã trở thành rất nhỏ và mọi người biết niềm tin của mọi người khác. Cho nên lẫn lộn của con người đã đạt tới điểm điên tuyệt đối. Bây giờ nó ở bên ngoài việc hiểu của người đó về mọi tiếng ồn này là gì, mọi người đang cố thuyết phục chúng ta về cái gì.

Nhưng ngay cả trong quá khứ tình huống đã không khá hơn mấy. Người Hindu không biết về niềm tin của người Mô ha mét giáo hay người Jaina không biết về niềm tin của người Ki tô giáo, đã không làm cho tình huống này rõ ràng hơn. Ngay cả người Jaina cũng không tin vào cùng điều một cách bản chất. Digambaras nói điều này, Svetambaras nói cái gì đó khác – bạn sẽ rất ngạc nhiên mà biết về những điều nào họ bất đồng. Điều đáng ngạc nhiên là mọi người có thể có những ý kiến đa dạng thế về những điều như thế. Một trong hai mươi bốn tirthankara của người Jaina là Mallinath. Digambaras nói rằng ông ấy là đàn ông còn Svetambaras nói rằng ông ấy là đàn bà. Svetambaras nói rằng ông ấy là Mallibai, Digambaras nói rằng ông ấy là Mallinath – và cả hai người đều nói rằng nếu bạn không tin chúng tôi, bạn sẽ xuống địa ngục. Digambaras nói rằng đàn bà không bao giờ có thể là tirthankara – bản thân sự kiện này là giả – cho nên ông ấy phải là đàn ông. Ông ấy là Mallinath, không phải Mallibai. Điều thực sự quá đáng là có xung đột về liệu một người là đàn ông hay đàn bà. Nhưng con người bị đe doạ rằng nếu người đó không tin người đó sẽ đi xuống địa ngục và sẽ phải khổ. Cho nên tốt hơn cả người đó phải tin!

Trên khắp thế giới các giáo huấn của những người muốn bạn tin họ đã tạo ra hỗn độn và lẫn lộn trong tâm trí con người. Người đó nghe mọi người và các ấn tượng của mọi giáo huấn của họ vẫn còn bên trong người đó, và con người của người đó bị kéo vào nhiều hướng khác nhau.

 

Và thế rồi sau tất cả những tôn giáo này, chủ nghĩa cộng sản tới. Chủ nghĩa cộng sản nói rằng tôn giáo chỉ là thuốc phiện. Không có nghĩa trong nó, ý tưởng về thượng đế là tuyệt đối sai, nó toàn là vô nghĩa. Tôn giáo thực là điều Marx nói: chủ nghĩa cộng sản là tôn giáo thực. Người ta phải tin vào nó và không vào cái gì khác. Kinh Thánh, Gita, Koran tất cả là sai – Das Kapital là kinh sách tôn giáo thực, người ta phải tin chỉ vào nó. Cho nên niềm tin mới bắt đầu….

Thế rồi sau chủ nghĩa cộng sản là tới khoa học. Khoa học nói rằng mọi thứ này là vô tích sự. Bất kì cái gì được viết trong kinh sách tôn giáo toàn là sai; duy nhất điều khoa học nói là đúng. Và ngay cả trong cuộc đời của một nhà khoa học, nhà khoa học khác có ý tưởng khác và tuyên bố rằng ông ta là đúng, rằng người thứ nhất là sai. Thế rồi nhà khoa học thứ ba tới, người tuyên bố rằng ông ta là đúng và hai người trước là sai. Và thế rồi có lẽ nhà khoa học thứ tư….

Trong tâm trí và tinh thần của con người, những người tuyên bố chân lí này đã tạo ra sự vướng mắc ý nghĩ lẫn lộn, điều là rất đa dạng và kéo con người đi theo mọi hướng. Sợ và hối lộ đã được dùng để tạo ra vướng mắc này; các phương pháp bí mật về sợ và hối lộ đã được dùng để áp đặt một tập các niềm tin lên con người – nếu bạn tin bạn đi lên cõi trời, nếu bạn không tin bạn xuống địa ngục.

Những người lãnh đạo tôn giáo này đã từng làm cùng điều mà người quảng cáo thời nay đang làm, nhưng những người quảng cáo không táo bạo hay dũng cảm. Người bán xà phòng vệ sinh Lux quảng cáo rằng hoàng hậu đẹp nào đó nói, “Tôi đã trở nên đẹp vì tôi dùng xà phòng vệ sinh Lux.” Do đó, bất kì người nào dùng nó sẽ trở nên đẹp và bất kì ai không dùng nó sẽ không trở nên đẹp. Thế thì người ta trở nên sợ rằng người đó có thể trở nên xấu cho nên người đó đi mua xà phòng vệ sinh Lux. Cứ dường như mọi người không đẹp khi xà phòng vệ sinh Lux đã không có đó, dường như Cleopatra, Mumtaj và Noorjehan đã không đẹp vì xà phòng vệ sinh Lux đã không có đó. Nhưng những người quảng cáo còn chưa rất dũng cảm; có lẽ trong tương lai họ sẽ nói, “Tirthankara nào đó nói, nhà tiên tri nào đó nói, thầy giáo nào đó nói, rằng người không dùng xà phòng vệ sinh Lux sẽ xuống địa ngục, người đó không thể lên cõi trời. Chỉ những người dùng xà phòng vệ sinh Lux có thể lên cõi trời.”

Con người có thể bị doạ rằng chỉ những người hút thuốc lá Panama sẽ lên cõi trời, vì hút thuốc và làm cho người khác hút thuốc lá Panama là điều rất tốt. Và người không hút thuốc lá Panama sẽ phải xuống địa ngục. Nếu người đó hút thuốc bidi của Ấn Độ, người đó sẽ phải chịu khổ nhiều ở địa ngục! Nếu ai đó không tin mọi điều này thế thì người đó sẽ phải đối diện với hậu quả. Người tin sẽ có hậu quả tốt còn người không tin sẽ có hậu quả xấu.

Những người quảng cáo hiện đại còn chưa trở nên dũng cảm như những người quảng cáo cổ kia. Họ đã doạ con người bằng việc bảo người đó những điều tuyệt đối sai và người đó liên tục nghe những điều đó và chấp nhận chúng mà không có bất kì chống cự nào. Thực ra bất kì điều phi chân lí nào, nếu được lặp lại nhiều lần trong hàng nghìn năm, bắt đầu có vẻ giống chân lí. Nếu ai đó liên tục lặp lại ngay cả điều không thực nhất – liên tục lặp lại và lặp lại nó – dần dần, dần dần bạn bắt đầu nghĩ rằng có lẽ nó có thể đúng, bằng không làm sao nó có thể được lặp lại nhiều lần thế trong thời gian lâu thế?

Một điều là chắc chắn: khi mà người ta được bảo phải tin, người đó sẽ tiếp tục bị khai thác. Chừng nào người ta được yêu cầu phải tin, người đó không thể được tự do với việc khai thác. Thế thì niềm tin có thể là của người Hindu hay của người Jaina hay của người Mô ha mét giáo, hay của bất kì người nào khác – nó có thể là của người cộng sản hay của người phi cộng sản, bất kì ai – nhưng chừng nào con người được bảo phải tin vào điều ai đó nói, và được bảo rằng nếu bạn không tin bạn sẽ khổ và nếu bạn tin bạn sẽ sướng… chừng nào thủ đoạn này còn được dùng, sẽ rất khó cho con người có đủ dũng cảm để gạt bỏ vướng mắc của các ý nghĩ bên trong người đó.

Tôi muốn nói với bạn cái gì? Tôi muốn nói với bạn rằng nếu chúng ta muốn gạt bỏ vướng mắc ý nghĩ mà đã được hình thành bên trong chúng ta, với điều đó hàng nghìn thế kỉ đã đóng góp vào, trong đó dấu vết của hàng trăm năm được thu thập, thế thì một điều phải được hiểu đầy đủ: không có cái gì nhiều tính tự tử hơn là niềm tin. Một điều chúng ta dứt khoát phải hiểu là ở chỗ tin, tin một cách mù quáng, chấp nhận một cách im lặng với mắt nhắm, đã từng là nguyên nhân cơ bản của việc làm què quặt các kiếp sống của chúng ta mãi cho tới giờ.

Nhưng mọi người yêu cầu bạn tin vào họ – họ bảo bạn tin họ, không tin vào người khác. Họ nói, “Không tin người khác vì họ là sai. Tôi đúng, tin vào tôi.”

Tôi muốn bảo bạn rằng tin vào bất kì ai đều mang tính phá huỷ và điều đó sẽ gây hại cho đời bạn. Không niềm tin, không niềm tin chút nào! Bất kì ai làm hệ thống niềm tin thành cơ sở cho cuộc đời người đó đều đang đi vào trong thế giới của mù quáng – và không ánh sáng để thấy nào đã bao giờ có thể đi vào trong cuộc sống của người đó. Người đó không bao giờ có thể đạt tới ánh sáng trong cuộc sống của người đó. Người tin vào người khác sẽ không bao giờ có khả năng biết bản thân người đó.

Vậy tôi có đang đòi hỏi bạn không tin không? Không! Cũng không cần không tin nữa. Nhưng chúng ta nghĩ rằng nếu chúng ta không tin vào cái gì đó thế thì chúng ta chắc chắn không tin nó. Điều này là ý tưởng tuyệt đối sai. Có trạng thái của tâm trí mà không tin lẫn không không tin…. Không tin là một hình thể của tin. Khi chúng ta nói rằng chúng ta không tin vào thượng đế, chúng ta đang nói gì? Chúng ta đang nói rằng chúng ta tin vào việc không tồn tại của thượng đế. Khi chúng ta nói, “Tôi không tin vào hồn,” thế thì chúng ta đang nói rằng chúng ta tin vào sự không tồn tại của hồn. Tin và không tin là những điều tương tự, không có khác biệt giữa chúng. Tin là khẳng định và không tin là phủ định. Tin là tin cậy khẳng định và không tin là tin cậy phủ định, nhưng cả hai là tin cậy.

Người ta chỉ có thể trở nên tự do khỏi vướng víu ý nghĩ bên trong của mình nếu người ta trở nên tự do với tin cậy và niềm tin, nếu người ta trở nên tự do với việc liên tục nhìn vào người khác theo quan điểm của họ, nếu người ta bỏ chính ý tưởng rằng bất kì người nào khác có thể cho người ta chân lí. Khi mà người ta có ý tưởng rằng ai đó khác có thể cho người ta chân lí, người ta sẽ ở trong lệ thuộc theo cách này cách khác. Nếu người ta có được tự do khỏi người này, người ta sẽ bị trói buộc vào người khác, nếu người ta có được tự do khỏi người thứ hai, người ta sẽ bị trói buộc vào người thứ ba – người ta không thể có được tự do từ lệ thuộc.

Nhưng được tự do khỏi người này và bị trói buộc vào người khác bao giờ cũng cho sự nhẹ nhõm một chốc.

Khi một người chết, bốn người khênh xác chết tới chỗ chôn cất trên đòn đám ma đặt trên vai họ. Khi một vai bắt đầu đau, họ đổi sang vai kia. Được một chốc họ thấy nhẹ bớt cho vai bị đau. Thế rồi vai thứ hai lại đau và họ lại đổi sang vai kia. Người đổi niềm tin của mình chỉ đổi từ vai nọ sang vai kia, trọng lượng bao giờ cũng hiện diện, điều đó không tạo ra khác biệt gì. Người ta được giảm nhẹ chỉ trong chốc lát.

Nếu người Hindu trở thành người Mô ha mét giáo, nếu người Mô ha mét giáo trở thành người Jaina, nếu người Jaina trở thành người Ki tô giáo, nếu ai đó bỏ mọi tôn giáo và trở thành người cộng sản hay cái gì đó khác, nếu người đó chỉ bỏ hệ thống niềm tin này và bắt giữ hệ thống niềm tin khác, không có thay đổi trong gánh nặng đè lên tâm trí người đó. Người đó được giảm nhẹ một chốc nhưng đó chỉ là đổi trọng lượng đè lên các vai – không có nghĩa trong loại giảm nhẹ đó.

 

Nếu chúng ta đổi niềm tin này sang niềm tin khác, điều đó không tạo ra khác biệt cho cuộc sống của chúng ta. Vấn đề của con người chúng ta vẫn còn như cũ. Không có khác biệt. Vấn đề của con người chúng ta chẳng liên quan gì tới việc là người Hindu hay người Mô ha mét giáo hay người Jaina hay người Ki tô giáo hay người cộng sản hay người phát xít, vấn đề của con người chúng ta là ở chỗ chúng ta tin. Khi mà người ta tin, người ta để bản thân mình vào lệ thuộc, người ta để bản thân mình vào tù và người ta bị trói buộc bằng cách nào đó này khác, ở đâu đó này khác.

Làm sao người bị tù, tâm trí bị tù, trở nên tự do khỏi ý nghĩ? Làm sao người đó có thể trở nên tự do khỏi các ý nghĩ mà người đó ôm giữ cùng toàn thể con người của người đó và điều người đó tin vào? Làm sao người đó có thể gạt bỏ được chúng? Điều đó rất khó. Chúng ta có thể gạt bỏ chúng nếu chúng ta loại bỏ viên đá móng.

Niềm tin là viên đá móng ở đáy của đống ý nghĩ. Trên cơ sở niềm tin, con người đã từng được khởi đầu vào các ý nghĩ và khi các ý nghĩ nắm bắt chặt tâm trí thế thì sợ cũng nắm giữ – cái gì sẽ xảy ra nếu tôi bỏ chúng? Cho nên con người nói rằng nếu anh ta được cho cái gì đó tốt hơn để nắm giữ thế thì anh ta có thể bỏ các ý nghĩ hiện tại của anh ta – nhưng ý nghĩ về việc bỏ ý tưởng ‘nắm giữ’ không đi vào tâm trí anh ta.

Tự do, giải thoát khỏi tâm trí, xảy ra không phải từ việc đổi niềm tin của người ta mà từ việc trở nên tự do khỏi bản thân niềm tin.

 

Những người tin không có khả năng đạt tới bất kì việc hiểu nào. Những người chấp nhận một cách im lặng không có khả năng có bất kì trải nghiệm nào của riêng họ. Cuộc hành trình của những người mù và ôm giữ sự kiện rằng nếu người khác nói rằng có ánh sáng thế thì chắc chắn phải có ánh sáng, kết thúc ngay chỗ đó. Cuộc hành trình chỉ tiếp tục khi thắc mắc vẫn còn và vẫn còn và vẫn còn và không bao giờ biến mất. Thắc mắc chỉ tới khi bạn cảm thấy có cái gì đó điều mọi người nó có đó, nhưng bạn không thấy nó cho nên bạn không thể chấp nhận được nó. Bạn có thể chấp nhận nó chỉ nếu bạn thấy nó. Loại thắc mắc này: “Tôi sẽ chấp nhận chỉ khi tôi thấy bằng chính mắt tôi,” cần có đó trong tâm trí.

Những người muốn bạn có niềm tin là những người nói rằng bạn không cần mắt riêng của bạn. Mahavira có mắt, điều đó là đủ. Phật có mắt, điều đó là đủ. Tại sao mọi người phải cần mắt? Krishna có mắt và đã viết Gita, thế thì tại sao bạn cần mắt? Đọc Gita và tận hưởng nó. Krishna có thể thấy, và ông ấy đã mô tả điều ông ấy có thể thấy, cho nên cần gì mọi người thấy? Bạn đơn giản chỉ tin. Những người có thể thấy đã nói rồi – việc của bạn đơn giản là tin. Tri thức đã được đạt tới – cần gì bạn phải biết bởi bản thân bạn?

Việc thuyết giảng này giữ con người mù quáng. Phần lớn mọi người trên trái đất vẫn còn mù và ngày nay phần lớn họ vẫn mù. Và nhìn vào tình huống này ngày nay mà xem, phần lớn mọi người có lẽ sẽ vẫn còn mù cả trong tương lai nữa vì giả kim thuật cơ bản của việc sửa mù, khao khát vượt qua việc mù, đã bị giết chết. Nó đã bị phá huỷ bởi việc cho các hệ thống niềm tin mạnh.

Thực ra đáng phải nói rằng dù mắt của Krishna tinh đến đâu và dù chúng có thể nhìn xa thế nào, chúng không phải là mắt của bạn. Và dù mắt của Mahavira có đẹp đến đâu – ngay cả giống hoa sen – chúng không phải là mắt của bạn. Mắt bạn có thể không rất có ý nghĩa – chúng có thể chỉ giống hoa trên cánh đồng, không phải hoa sen – nhưng chúng là mắt riêng của bạn. Chỉ bằng mắt riêng của bạn, bạn có thể thấy.

Cho nên người ta phải tìm việc hiểu riêng của mình vì người ta không thể đạt tới bất kì cái gì bằng việc tôn thờ sáng suốt của người khác. Thực ra, việc tìm cách hiểu riêng của người ta chỉ có thể bắt đầu khi người ta bỏ ý tưởng của người khác. Khi có bất kì cái thay thế bên ngoài, khi cái gì đó được cung cấp từ bên ngoài, việc tìm kiếm không thể bắt đầu.

Khi không có hỗ trợ hay đáp ứng từ cái gì đó khác, khi không cái gì có thể được đạt tới từ người khác, thế thì thách thức nảy sinh bên trong con người để tìm theo cách riêng của người đó, cho việc hiểu riêng của người đó.

Con người rất lười. Nếu con người có thể đạt tới tri thức mà không làm bất kì nỗ lực nào, tại sao con người phải làm nỗ lực, tại sao con người phải làm bất kì công việc nào? Nếu chứng ngộ có thể được đạt tới chỉ bởi việc tin, không tìm kiếm, thế thì tại sao con người phải cố làm cuộc hành trình tới chứng ngộ theo cách riêng của mình? Và khi ai đó nói, “Tin tôi đi, tôi sẽ làm cho ông chứng ngộ,” tại sao bản thân người đó phải làm nỗ lực khổng lồ? Khi ai đó nói, “Ngồi trong thuyền của tôi. Tôi sẽ đưa ông tới bờ bên kia và thế thì vấn đề xong rồi,” người đó sẽ ưa thích ngồi im lặng trong thuyền và đi ngủ.

Nhưng không ai có thể đạt tới bất kì chỗ nào trong thuyền của ai đó khác. Và không ai có thể thấy bằng mắt của người khác – không ai đã bao giờ thấy và không ai sẽ bao giờ thấy. Người ta phải bước trên chân riêng của mình, người ta phải thấy bằng mắt riêng của mình, người ta phải sống bằng nhịp tim đập riêng của mình. Người ta phải sống bằng bản thân người ta và người ta phải chết bằng bản thân người ta. Không ai có thể sống thế vào chỗ của người khác; không ai có thể chết thế vào chỗ của người khác. Không ai có thể lấy chỗ của người khác; mà không ai có thể lấy được chỗ của bất kì người nào khác. Nếu có bất kì cái gì không thể được một cách toàn bộ trong thế giới này, nó là sự kiện rằng không người nào có thể lấy được chỗ của bất kì người nào khác.

 

Những người muốn bạn có niềm tin đã bảo bạn nhìn qua mắt của ai đó khác – nhìn qua mắt của các tirthankara, nhìn qua mắt của các avatara. Chúng ta đã liên tục tin, điều là lí do tại sao chúng ta đã bị vướng mắc vào trong mạng lưới mù. Hàng nghìn thầy giáo đã tạo ra ồn ào và những người đi theo của hàng nghìn thầy giáo đã tạo ra nhiều ồn ào tới mức họ đã tạo ra sợ lớn về địa ngục và tham lớn về cõi trời – cho nên dần dần, dần dần chúng ta đã chấp nhận điều họ nói. Và lời của những người đó đã tạo ra mâu thuẫn bên trong chúng ta tới mức cuộc hành trình của cuộc đời chúng ta sẽ bị phá vỡ thay vì đi tới bất kì chỗ nào.

Cho nên điều đầu tiên để người thông minh làm là nói lời tạm biệt với mọi ý nghĩ mâu thuẫn của mình và quyết định, “Mình sẽ không tin. Mình muốn biết. Ngày mình hiểu cho bản thân mình, duy nhất ngày đó mình có thể dùng từ ‘tin’. Trước điều đó không thể có bất kì cái gì giống như niềm tin với mình. Nó là lừa dối, nó là tự lừa dối. Mình không thể lừa bản thân mình và nói rằng mình biết mà không biết, rằng mình nhận ra mà không nhận ra. Điều không thể được với mình là chấp nhận một cách mù quáng.”

Điều này không có nghĩa là bạn bác bỏ cái gì đó; nó đơn giản có nghĩa là bạn đang đứng tách xa khỏi cả chấp nhận và bác bỏ. Bạn nói, “Tôi không đồng ý cũng không bất đồng. Tôi không nói rằng Mahavira là sai mà tôi cũng không nói rằng ông ấy là đúng. Tôi đơn giản nói rằng bản thân tôi không biết điều Mahavira nói cho nên tôi không có quyền đồng ý hay bất đồng. Ngày bản thân tôi đi tới biết rằng ông ấy là đúng, tôi sẽ đồng ý. Nếu tôi đi tới biết rằng điều ông ấy nói là sai, thế thì tôi sẽ bất đồng. Nhưng tôi còn chưa biết, cho nên làm sao tôi có thể nói có hay không?”

Nếu tâm trí chúng ta bản thân nó có thể đứng xa khỏi cả chấp nhận và bác bỏ, thế thì vướng mắc có thể phá ra ở đây và bây giờ. Nếu bản chất cơ bản của mạng lưới này bị phá vỡ, thế thì nó sẽ là mong manh như lâu đài bằng bìa mà sẽ đổ sụp bởi chút xô đẩy. Ngay bây giờ nó giống như lâu đài đá với nền móng vững chắc mà không thể dễ dàng thấy được. Cho nên tâm trí chúng ta bị ước định để hiểu rằng những người tin và chấp nhận là tôn giáo và những người bác bỏ và không tin là phi tôn giáo.

Nhưng tôi nói với bạn: người tin không có tính tôn giáo, mà người không tin cũng không có tính tôn giáo. Người tôn giáo là người là thực. ‘Thực’ ngụ ý rằng người đó không tin mà cũng không không tin vào điều người đó không biết. Người đó đơn giản công bố với sự chân thành hoàn toàn rằng người đó không biết, người đó dốt nát, cho nên không có vấn để chút nào về việc chấp nhận hay bác bỏ của người đó.

Bạn có thể thu được dũng cảm và sức mạnh để đưa con người bạn tới điểm giữa này không? Nếu bạn có thể, thế thì lâu đài các ý nghĩ này có thể sụp đổ ngay lập tức – không có khó khăn về nó chút nào.

 

Từ “Hành trình bên trong”, Ch.6