Hương thơm và âm thanh

Nhiều thứ khác đã được đưa vào dùng trong đền, chúng có kết nối bên trong của chúng. Đó có thể là chiếc đèn đất cháy bằng bơ, hay hương đang thắp, hay dùng bột gỗ đàn hương hay hoa hay bất kì hương thơm nào khác – tất cả đều có liên quan. Đó không phải vấn đề về vị thần đặc biệt nào thích một hoa đặc biệt, đó là vấn đề về sự hài hoà của đền. Kiểu âm thanh nào và kiểu hương thơm nào là hài hoà với đền đã được quyết định qua kinh nghiệm. Chỉ hoa nào đó với hương thơm nào đó mà quyện lẫn hài hoà với âm thanh nào đó là được dùng; những thứ khác với hương thơm khác bị cấm.

Trong nhà thờ hồi giáo chỉ lobhan, dầu creosote nhựa cánh kiến, có thể được dùng như hương, và nhang trầm hương và hương agarbatti trong đền. Mọi thứ này có kết nối của chúng với âm thanh. Với âm “Allah,” có sự hài hoà bên trong với hương của lobhan. Những móc nối hay kết nối này tất cả đều được khám phá qua việc tìm bên trong về điều tối thượng; chúng không được tìm thấy qua bất kì quá trình suy nghĩ nào. Tôi sẽ nói cho bạn cách điều này được làm.

Bạn có thể ngồi trong phòng nơi không lobhan nào đã được đốt và lặp lại, “Allah” – không chỉ “Allah” mà “Allahooh” với nhấn mạnh đặc biệt vào “hoo.” Bạn sẽ thấy rằng dần dần âm “Allah” đó biến mất và tự động chỉ còn “hoo” sẽ liên tục được lặp lại. Khi điều này xảy ra, đột nhiên bạn sẽ thấy rằng toàn thể căn phòng của bạn được ngát hương với mùi của lobhan. Người ta khám phá ra rằng lobhan là tương tự như chất thoát ra từ bạn. Cho nên lobhan được đốt trong nhà thờ hồi giáo với quan điểm giúp mọi người lặp lại “Hoo.” Thế thì quá trình này là gấp đôi: việc phát ra hương thơm từ bên trong một người có thể mất chút thời gian, nhưng cùng hương thơm này có thể được cung cấp lúc khởi đầu từ bên ngoài trong nhà thờ hồi giáo. Nhưng việc lặp lại của “Aum” không bao giờ có thể đem tới hương thơm của lobhan. Âm thanh này đập vào trung tâm khác mà không thể tạo ra mùi này.

Có những khu vực hương thơm bên trong thân thể chúng ta, và những khu vực này được móc nối với ý nghĩ và tình cảm của chúng ta.

Đó là lí do tại sao người Jaina tin rằng thân thể của Mahavira không bao giờ cho bất kì mùi hôi nào. Thân thể của ông ấy có hương thơm nào đó, trên cơ sở đó có khả năng nhận ra tirthankara. Vào thời của Mahavira, tám người khác đã tuyên bố là tirthankaras, nhưng hương thơm đặc biệt này đã không tới từ họ. Không người nào trong số họ kém am tường hơn Mahavira, họ đã có cùng mức bão hoà tâm linh, nhưng họ đã không phải là những người thực hành của hệ thống kỉ luật tâm linh mà tạo ra hương thơm này, cho nhên những tuyên bố của họ bị bác bỏ.

Phật cũng không kém hơn Mahavira theo bất kì cách nào. Ông ấy ở cùng tầm cỡ và trạng thái tâm thức như Mahavira, nhưng vì ông ấy không đi theo cùng phương pháp như Mahavira, thân thể ông ấy không thể phát ra cùng kiểu hương thơm. Hương thơm đó cũng phát ra từ Parshwanath, một tirthankara đã chết từ lâu trước thời của Mahavira. Những người đương đại của ông ấy vẫn còn sống và họ xác nhận rằng hương thơm của Mahavira là tương tự như hương thơm của Parshwanath. Kết quả tối thượng của quá trình mật chú nào đó đã là hương thơm đặc biệt đó.

Đây là việc bố trí dựa trên kí ức để xác định sự đích thực của một tirthankara. Cho nên mặc dù Mahavira không bao giờ tuyên bố rằng ông ấy là tirthankara, ông ấy đã được công bố là một người như vậy một cách dễ dàng. Makhkhali Goshal, mặt khác, đã tuyên bố nhưng đã không thể chứng minh được điều đó. Bạn có thể ngạc nhiên làm sao hương thơm đã được dùng như một tiêu chí. Phép thử này phải là sâu và không thể sai được – lời không thể được dựa vào. Toàn thể tính cá nhân của người đó phải phát ra hương thơm đặc biệt điều sẽ chỉ ra rằng việc nở hoa nào đó đã xảy ra bên trong người đó, rằng cao trào của quá trình mật chú cho sinh thành ra một tirthankara đã xảy ra.

Makhkhali Goshal, Ajitkesh Kambal và Sanjay Vilethiputra toàn là những người thỉnh cầu, đều rất thông thái, có tầm cỡ như Mahavira – từng người trong số họ có hàng nghìn người đi theo, người đã tuyên bố rằng thầy của họ là một tirthankara – nhưng tất cả họ đã biến mất trong quên lãng. Mặt khác, Mahavira đã tuyệt đối im lặng ở điểm này và không bao giờ đưa ra bất kì lời tuyên bố nào. Nhưng đến cuối điều đã được quyết định là chỉ thân thể người đó phát ra hương thơm đặc biệt đó mới có thể là một tirthankara.

 

Mọi mật chú đều tạo ra hương thơm riêng của nó. Những người đã thực hành tụng “Aum” đều biết tới một loại hương thơm nào đó. Tương tự, mọi mật chú đều tạo ra một kiểu ánh sáng bên trong đặc biệt. Bao nhiêu ánh sáng phải được cung cấp trong đền đã được quyết định trên cơ sở của ánh sáng bên trong đó – không nhiều không ít. Dốt nát của những người ngồi dưới đèn điện chói mắt trong đền đơn giản đáng ngạc nhiên. Chúng không được cần tới chút nào, vì chỉ chừng ấy ánh sáng được cần ở bên trong bầu trời bên trong – ánh sáng rất dịu và vô hại. Cho nên đèn thắp bằng bơ đã được dùng vì nó hoàn toàn vô hại và không làm chói mắt.

Có thể không dễ hiểu sự khác biệt giữa ánh sáng dầu lửa và ánh sáng bơ vì chúng ta chưa bao giờ thực nghiệm với thiền theo ánh sáng. Thắp một chiếc đèn có đầy dầu lửa và tập trung vào ngọn lửa trong một giờ: mắt bạn sẽ bắt đầu nóng và trở nên mệt và đau. Thế rồi thắp chiếc đèn khác có bơ trong nó, và tập trung vào ngọn lửa đó trong một giờ: mắt bạn sẽ cảm thấy mát hơn và dịu hơn. Những kinh nghiệm bên trong của hàng nghìn người đã tiết lộ mọi điều này, và những điều tương tự đã được tìm thấy mà trở thành sự trợ giúp bên ngoài. Tất nhiên, không thể cung cấp chiếc đèn đích xác như cùng ánh sáng bên trong, cho nên chỉ điều xấp xỉ nhất được tìm ra. Hương thơm đích xác được tạo ra bên trong bạn sau khi tụng một mật chú đặc biệt không thể được tìm thấy ở bên ngoài, cho nên chúng ta phải bằng lòng với việc xấp xỉ gần nhất.

Bột gỗ đàn hương trở thành phổ biến trong mọi đền. Chỗ trên trán nơi bột gỗ đàn hương được dán vào có tên là luân xa agyna trong Yoga. Việc thực hành những mật chú nào đó tạo ra kinh nghiệm bên trong về hương gỗ đàn hương, nhưng nguồn của hương thơm đó là luân xa agya. Bất kì khi nào kinh nghiệm con mắt thứ ba trở nên mãnh liệt, hương gỗ đàn hương được thoát ra, cho nên hương gỗ đàn hương đã trở thành biểu tượng cho kinh nghiệm đó, do đó chúng ta dán bột đàn hương vào trán. Khi luân xa agya phát ra hương thơm này có một loại cảm giác mát mẻ được cảm thấy, dường như bạn đã đặt một mẩu băng lạnh vào con mắt thứ ba. Có khác biệt giữa những thứ mát mẻ và những thứ êm dịu – cũng cùng như giữa đèn dầu lửa và đèn được đốt bằng dầu bơ.

Băng là lạnh, nhưng nó không êm hay dịu. Cảm giác mát của băng chỉ kéo dài một khoảng ngắn và được tiếp sau bởi cảm giác nóng. Băng chắc chắn là lạnh, nhưng không dịu hay êm. Cảm giác tối thượng nhất định là cảm giác về nóng; bạn cảm thấy chút ít nóng hơn trước đây. Nhưng bột gỗ đàn hương là dịu và không lạnh; nó chỉ làm dịu. Mát có một loại chiều sâu. Nếu băng được đặt vào luân xa agya nó sẽ chỉ làm cho bề mặt lạnh đi. Nếu gỗ đàn hương được dán vào luân xa agya, bạn sẽ cảm thấy rằng hiệu quả làm dịu của nó thấm vào các tầng sâu hơn bên ngoài da. Sự mát mẻ phải xuyên thấu tới chỗ của con mắt thứ ba.

Những người đã trải nghiệm sự làm việc của luân xa agya và đã cảm thấy hiệu quả làm dịu của nó đi tìm cái tương đương và thấy nó có trong bột đàn hương. Nó có cùng hương thơm như hương phát ra từ bên trong.

 

Từ “Điều huyền bí ẩn kín”, Ch.1