Lấy ví dụ, chẳng hạn, các đền…. Không có giáo phái nào trên thế giới đã không xây dựng cái gì đó như đền – không thành vấn đề liệu nó được gọi là masjid hay nhà thờ hay nhà thờ Do Thái. Ngày nay chúng ta vẫn có thể biết cái gì đó từ các giáo phái khác, nhưng đã có thời mà chúng ta thậm chí đã không biết về sự tồn tại của các giáo phái khác, cho nên không có cách nào để biết từ các giáo phái khác. Đền không phải là kết quả tưởng tượng của những người lập dị nào đó, mà gốc rễ của nó nằm đâu đó sâu trong ý thức bên trong của con người.
Con người có thể đã sống xa xôi trong rừng, hay trên núi, hay trong hang, hay trên bờ sông – con người có thể đã sống ở bất kì chỗ nào vì vấn đề đó – nhưng bất kì chỗ nào con người đã sống, con người đã xây dựng cái gì đó tựa như ngôi đền. Cái gì đó đã bắt nguồn từ tâm thức của con người. Không có bắt chước mù quáng trong điều đó; chúng đã không được xây dựng bằng việc nhìn vào các ngôi đền khác. Cho nên mọi ngôi đền đã có hình dạng và kiểu cách khác nhau, nhưng chúng bao giờ cũng tồn tại.
Có nhiều khác biệt giữa đền và masjid, cách bố trí và lập qui hoạch là khác hoàn toàn lẫn nhau, nhưng không có khác biệt trong khát vọng hay thôi thúc bên trong của con người. Con người có thể ở bất kì chỗ nào; cho dù không xa lạ và quen thuộc, con người ở cùng với những người khác, con người mang cùng hạt mầm tiềm tàng ở đâu đó trong tâm thức của mình.
Điều khác đáng để ý là ở chỗ mặc dầu hàng nghìn năm đã trôi qua và chúng ta không có manh mối gì về các ổ khoá hay kho báu ẩn kín, dầu vậy chúng ta liên tục mang những chìa khoá kì lạ dường như dưới sự quyến rũ của trí nhớ lay lắt nào đó. Mặc cho mọi công kích lên điều này – lí trí cố làm nát vụn nó từ mọi phía; cái gọi là người trí thức hiện tại không chấp nhận nó – dầu vậy trái tim con người trân quí kí ức này và tiếp tục bị say mê bởi nó. Cho nên chúng ta nên nhớ rằng mặc dầu ngày nay con người không nhận biết về nó, vậy mà ở đâu đó trong vô thức của chúng ta có tiếng vọng âm vang điều cho chúng ta biết rằng những ổ khoá nào đó có thời đã được dùng để mở.
Tại sao điều này được lưu giữ trong vô thức? Chỉnh bởi vì không người nào trong chúng ta là mới với thế giới này. Mọi người trong chúng ta được sinh đi sinh lại mãi, và không bao giờ có lúc mà chúng ta không tồn tại. Điều chúng ta đã biết một cách có ý thức trong ngày đã qua bây giờ, hôm nay là vô thức, bị chôn vùi bên trong chúng ta dưới hàng nghìn tầng là vô thức. Nếu trong ngày đã qua chúng ta đã biết ý nghĩa và các bí mật sâu hơn của đền và đã trải nghiệm việc mở ra của cánh cửa bên trong nào đó, thế thì ở đâu đó trong chỗ thầm kín của vô thức kí ức đó vẫn nằm đó được ghi nhớ. Trí tuệ có thể phủ nhận toàn bộ sự tồn tại của nó, nhưng trí tuệ không thể đạt tới chiều sâu đó nơi kí ức được giữ lại.
Cho nên mặc cho mọi chướng ngại, mặc cho việc có vẻ vô nghĩa của nó theo mọi cách, đây là cái gì đó còn dai dẳng, cái không thể bị loại bỏ đi. Nó có thể lấy hình thể mới, nhưng nó tiếp tục. Đây là khả năng duy nhất nếu chúng ta đã biết cái gì đó một số vô hạn lần trong cuộc hành trình lâu dài vô hạn của sinh và tử – mặc dầu chúng ta có thể không nhớ được nó hôm nay.
Ngoài việc có hữu dụng bên ngoài – như phương tiện cho mục đích – từng trong những điều này cũng có ý nghĩa và chủ định sâu hơn.
Hấp dẫn phổ quát này về việc làm ra đền mang tính kế thừa chỉ có trong con người. Con vật làm chỗ cư ngụ của chúng, và chim làm tổ, nhưng chúng không làm đền. Khi phân biệt con người với con vật, một đặc trưng nổi bật là ở chỗ con người là con vật làm ra đền; không con vật nào khác làm ra đền. Cung cấp chỗ cư ngụ nào đó cho bản thân mình là tuyệt đối tự nhiên vì nó được mọi sinh vật làm. Chim và thú làm điều đó, ngay cả côn trùng nhỏ cũng là điều đó, nhưng làm nhà cho điều thiêng liêng là đặc trưng phân biệt của con người.
Không có nhận biết sâu nào đó của con người về điều thiêng liêng, đền không thể được xây dựng. Cho dù nhận biết đó về sau bị mất đi, đền sẽ vẫn còn lại; và điều hoàn toàn chắc chắn là nó không thể được xây dựng mà không có kinh nghiệm sâu sắc về điều thiêng liêng.
Bạn làm nhà khách vì khách liên tục tới thăm bạn. Nếu như không có khách, bạn chắc đã không phí tiền vào nhà khách. Nhưng cho dù có thể không có khách bây giờ, nhà khách vẫn còn lại. Cho nên toàn thể ý tưởng về làm đền hay điện thờ cho điều thiêng liêng phải đã được quan niệm trong những khoảnh khắc mà điều thiêng liêng đã không chỉ là vấn đề tưởng tượng mà là thực tại sống cho mọi người. Chính quá trình hoá thân của điều thiêng liêng trên thế gian đã làm ra sự cần thiết phải có các chỗ đặc biệt ở mọi ngóc ngách xó xỉnh của thế giới, nơi có thể phục vụ như chỗ cư ngụ đặc biệt cho ngài. Để đón nhận đúng bất kì cái gì, những thu xếp thích hợp phải được thực hiện.
Nó có thể được hiểu theo cách này…. Sóng radio đang đi qua khắp quanh chúng ta, nhưng chúng không thể bắt được nếu không có máy thu radio. Ngày mai, nếu có thế chiến thứ ba và nếu mọi công nghệ bị phá huỷ nhưng bằng cách nào đó máy thu radio đã may mắn được bỏ lại nguyên si, bạn chắc sẽ không muốn vứt nó đi. Mặc dầu bạn biết rằng bạn không thể phát thanh, hoặc không thể chỉnh đài theo bất kì chương trình nào, hay ngay cả không tìm được một kĩ thuật viên để sửa nó, bạn chắc sẽ không muốn vứt chiếc radio đi.
Sau vài thế hệ trong gia đình bạn, nếu bất kì người nào định hỏi về cách dùng radio, không ai trong gia đình bạn còn sống mà sẽ có khả năng đáp lại. Họ có thể chỉ nói rằng bố họ và ông cha họ đã nhấn mạnh vào việc giữ nó, cho nên họ tiếp tục giữ nó. Ông cha họ không bao giờ bảo họ nó là để làm gì, họ không biết cách dùng nó và do vậy nó chẳng giúp gì cho họ; cho dù chiếc radio đó bị tháo hết ra, chẳng cái gì có thể được biết. Bằng việc mở radio ra, không thể biết được rằng vào lúc nào đó trong quá khứ âm nhạc và lời nói có thể đã được nghe qua nó. Chiếc radio chỉ được dùng để làm việc như một trạm thu cho cái gì đó đang xảy ra ở đâu đó khác, nhưng nó có thể bắt lấy sóng và làm việc như một phương tiện để đưa chúng ra như âm thanh cho người nghe.
Đích xác theo cùng cách này, đền được dùng để vận hành như công cụ thu nhận.
Mặc dầu tính thượng đế là ở mọi nơi và con người cũng hiện diện ở mọi nơi, chỉ trong hoàn cảnh đặc biệt nào đó bên trong chúng ta mà chúng ta trở nên được hoà điệu với tính thượng đế đó. Cho nên đền đã phục vụ như trung tâm của tính cảm nhận để tạo khả năng cho chúng ta cảm thấy sự tồn tại thiêng liêng, tính thượng đế, tính cao cả tâm linh. Toàn thể việc sắp xếp trong đền được thúc đẩy xem xét theo mục đích này. Các kiểu người khác nhau đã nghĩ tới đa dạng cách sắp xếp, nhưng điều đó không có hệ quả gì mấy. Không có khác biệt nếu đa dạng nhà chế tạo sản xuất ra các radio với việc tổ hợp các chuyên môn riêng của họ, với hình và dáng khác nhau, chừng nào chủ định tối thượng này vẫn cùng là một điều.
Đền ở Ấn Độ chủ yếu đã được xây dựng từ một trong ba hay bốn hình mẫu; các đền khác chỉ là bản sao của những đền này. Mái vòm của đền đã dựa trên mô hình bầu trời. Đã có chủ định nền tảng cho điều này. Nếu tôi ngồi dưới bầu trời mở và lẩm nhẩm “Aum,” giọng của tôi sẽ bị mất hút, vì sức mạnh của giọng nói cá nhân sẽ bị bao bọc bởi cái bao la của bầu trời. Tôi sẽ không có khả năng nghe thấy tiếng dội lại, tiếng vọng của việc tụng của tôi – mọi lời cầu nguyện sẽ mất hút trong cái bao la của bầu trời.
Mái vòm đã được xây dựng để cho việc vang vọng của lời cầu nguyện có thể bật lại vào chúng ta. Mái vòm chỉ là bản mẫu nửa hình tròn, nhỏ của bầu trời. Nó có cùng hình dáng như bầu trời chạm đất ở cả bốn bên. Bất kì lời cầu nguyện hay lời tụng nào được làm dưới vòm của nó sẽ không bị mất hút như chúng sẽ bị mất hút trong bầu trời bao la, vì mái vòm sẽ ném chúng trở lại hướng tới người cầu nguyện. Mái vòm càng tròn, càng dễ cho âm thanh dội trở lại, và tiếng vọng của nó tăng lên theo cùng tỉ lệ.
Khi thời gian trôi qua ngay cả đá cũng được phát hiện ra là có thể tăng gấp bội việc vang vọng tới mức vô cùng.
Có một phòng cầu nguyện Phật giáo trong các hang Ajanta nơi đá vọng lại âm thanh với cùng sự mãnh liệt như của nhạc cụ Ấn Độ, đàn tabla. Nếu chúng ta gõ vào những hòn đá đó với cùng lực như được dùng trong việc chơi đàn tabla, chúng sẽ cho ra cùng âm lượng. Đá thường được dùng trong việc xây dựng mái vòm không có năng lực vọng lại những âm thanh rất tinh tế nào đó, và do vậy một kiểu đá đặc biệt đã được dùng.
Chủ định đằng sau mọi điều này là gì? Chủ định là ở chỗ khi bất kì người nào tụng “Aum,” và điều đó được làm rất mãnh liệt, mái vòm của đền tạo ra âm thanh vang vọng, hình thành vòng tròn của việc tụng hay âm thanh. Mái vòm của đền, bởi chính bản chất của thiết kế của nó, giúp việc hình thành vòng tròn bằng việc vọng lại âm thanh này. Vòng tròn âm thanh như vậy là duy nhất. Nếu “Aum” được tụng dưới bầu trời mở, không vòng tròn âm thanh nào sẽ được hình thành, và bạn sẽ không bao giờ trải nghiệm niềm vui đó.
Khi việc hình thành vòng tròn này xảy ra, bạn không còn chỉ là người cầu nguyện khiêm tốn trước điều thiêng liêng, mà bạn trở thành người nhận – điều đó nói lên, người có lời cầu nguyện được trả lời. Và với việc vang vọng đó, kinh nghiệm thiêng liêng bắt đầu đi vào bạn. Mặc dầu âm thanh được tạo ra trong việc tụng mang tính người, khi nó được vọng lại, nó vang vọng với tốc độ mới, và khi nó được hấp thu, các tiềm năng khác được thoát ra.
Những ngôi đền hình dáng mái vòm đã được dùng để hình thành các vòng tròn âm thanh qua việc tụng các mật chú. Nếu người ta làm việc tụng khi ngồi một mình trong an bình và im lặng hoàn hảo, ý nghĩ sẽ dừng lại. Một mặt vòng tròn được hình thành, và mặt khác, ý nghĩ đi tới chỗ dừng. Như tôi vẫn thường nói, vòng tròn năng lượng được hình thành ngay cả trong hành động giao hợp dục giữa đàn ông và đàn bà, và khi việc hình thành vòng tròn như vậy xảy ra – đó là khoảnh khắc trỏ tới siêu tâm thức.
Nhìn các tượng Phật và Mahavira trong tư thế padmasan hay siddhasan mà xem. Những điều này chỉ dẫn các phương pháp khác cho việc hình thành những vòng tròn như vậy. Khi chúng ta ngồi khoanh hai chân lại và tay để trên chân, thế thì toàn thân bắt đầu hoạt động như một vòng tròn. Thế thì điện thân thể không thể thoát ra, và một mạch được tạo ra. Ngay khi mạch này được tạo ra, người ta trở thành vô suy nghĩ. Nếu chúng ta dùng ngôn ngữ của kĩ sư điện, có thể nói rằng đám các ý nghĩ ồn ào bên trong tâm trí hiện hữu vì việc không tạo ra mạch điện bên trong của chúng ta. Ngay khi mạch này được tạo ra năng lượng bên trong trở nên cân bằng và im lặng. Cho nên, việc tạo ra vòng tròn năng lượng với sự giúp đỡ của mái vòm của đền đã là tiến bộ lớn, và đây đã là chủ định và ý nghĩa sâu của nó.
Chúng ta thấy những cái chuông hay cồng lớn ở lối vào các ngôi đền, và những thứ này phục vụ cho cùng một chủ định. Khi bạn tụng “Aum,” mặc dầu bạn có thể làm rất yên tĩnh và chú ý của bạn có thể ở chỗ nào đó khác, âm thanh của chuông sẽ lập tức mang chú ý của bạn trở lại vòng tròn của âm thanh được tạo ra bởi chuông rung. Điều đó cũng giống như khi hòn đá được ném vào trong ao, tạo ra hết gợn sóng nọ tới gợn sóng kia.
Trong các đền Tây Tạng, thay vì chuông hay cồng, họ để một cái bát lớn được làm từ đa dạng kim loại, và một chiếc đũa để quay tròn bên trong nó. Đũa này được quay trong cái bát bẩy lần, và thế rồi nó đập một lần vào bát với tiếng choang lớn. Những rung động được tạo ra trong bát tạo ra âm thanh tựa như, “Mani padme hum” – toàn thể câu mật chú này. Cái bát vang vọng âm thanh, “Mani padme hum,” không phải một lần, mà bẩy lần. Quay chiếc đũa bên trong bát nhanh, bẩy lần, đập vào bát và thế rồi lấy đũa ra – và thế thì bạn sẽ nghe thấy tiếng vọng của mật chú, “Mani padme hum,” bẩy lần. Mặc dầu âm thanh này sẽ trở nên mỗi lúc một nhỏ đi, nó sẽ được nghe thấy bẩy lần.
Tương tự, trong đền có mái vòm tạo ra bên trong bản thân bạn câu mật chú, “Aum mani padme hum,” và lắng nghe: đền sẽ vọng lại nó. Mọi tế bào thân thể bạn sẽ nhận rung động này và trả lại nó với sự ngân vang sâu sắc hơn. Sau vài khoảnh khắc bạn không có mà đền cũng sẽ không có đó – chỉ các vòng tròn năng lượng sẽ được cảm thấy.
Cần phải nhớ rằng âm thanh là một dạng tinh tế của điện. Bây giờ ngay cả khoa học cũng đồng ý với điều này. Thực ra, mọi thứ đều là một dạng của điện. Nhưng các hiền nhân Ấn Độ đi xa thêm một bước và nói rằng điện là hình dáng của âm thanh, rằng âm thanh là cơ sở, không phải là điện. Đó là lí do tại sao họ gọi điều tối thượng là shabda-brahma – “âm thanh là thực tại tối thượng.”
Bây giờ có tương tự lớn về cách tiếp cận giữa các nhà tư tưởng phương Đông và các nhà khoa học hiện đại, khác biệt duy nhất là cái nào trong hai điều này là chủ chốt. Nhà khoa học nói rằng điện là chủ chốt, trong khi hiền nhân nói rằng độ dầy đặc âm thanh tạo ra điện. Điều này có nghĩa là trong tương lai gần khoa học sẽ phải nghiên cứu khía cạnh tuyệt đối của âm thanh.
Hiểu biết của hiền nhân bắt nguồn từ trải nghiệm về âm thanh được tạo ra dưới mái vòm của đền. Khi âm thanh mãnh liệt của “Aum” được tạo ra trong đền bởi người sùng kính, trong vòng vài phút người đó cảm thấy rằng cả người đó lẫn đền không có đó, nhưng duy nhất điện còn lại. Kết luận này không được đạt tới trong bất kì phòng thí nghiệm nào – những người đã làm ra những tuyên bố đó đã không có phòng thí nghiệm, đền của họ phục vụ như phòng thí nghiệm duy nhất của họ. Ở đó họ đã trải nghiệm rằng mặc dầu họ đã bắt đầu với âm thanh, cái còn lại lúc cuối là điện.
Để trải nghiệm biến đổi này của âm thanh, đền có mái vòm được làm ra.
Khi người phương Tây thấy đền Ấn Độ lần đầu tiên, họ nghĩ chúng rất mất vệ sinh. Bởi chính bản chất của quan niệm của người Ấn Độ, đền không thể có nhiều cửa và cửa sổ. Chỉ có một cửa ra vào, và cửa đó nữa cũng rất nhỏ. Ý tưởng đằng sau điều này là để đảm bảo rằng vòng tròn âm thanh được tạo ra trong đền trở nên không bị cản trở. Thế thì không có gì ngạc nhiên rằng những người phương Tây đó đã đi xa với ấn tượng rằng những ngôi đền đó xám xịt, tăm tối và bẩn thỉu, và rằng ngay cả không khí trong lành cũng không thể đi vào trong chúng được. Theo so sánh, nhà thờ riêng của họ đầy không khí và sạch sẽ và có nhiều cửa ra vào và cửa sổ lớn qua đó ánh sáng và không khí trong lành có thể dễ dàng đi vào và giữ cho nhà thờ của họ vệ sinh.
Tôi đã kể cho bạn trước đây rằng khi bí mật về việc dùng khoá bị quên đi, mọi loại khó khăn nảy ra. Ngày nay không một người Ấn Độ nào sẽ có khả năng nói tại sao đền đã không được làm với các cửa sổ và nhiều cửa ra vào. Cho nên khi được hỏi chúng ta cũng cảm thấy thiên về đồng ý rằng các đền của chúng ta là không vệ sinh; không ai có thể tranh cãi rằng trong những đền này những người mạnh khoẻ nhất đã sống và không người bệnh nào đã được phép bước vào. Nhưng người thường cầu nguyện và tôn thờ ở đó thường là một số trong những người mạnh khoẻ nhất, theo nghĩa thực của thuật ngữ này.
Tại sao? Dần dần người ta bắt đầu nhận ra rằng âm thanh được tạo ra bởi việc tụng “Aum” có hiệu ứng làm thuần khiết duy nhất. Có những âm thanh nào đó mà có hiệu quả làm thuần khiết, và có những âm thanh khác gây ô uế. Một số âm thanh đặc biệt hành động như cái ngăn cản bệnh tật, và có những âm thanh khác mời gọi bệnh tật. Tuy nhiên, toàn thể khoa học về âm thanh bị mất rồi.
Những người đã nói rằng âm thanh là hiện hữu tuyệt đối đã nói điều tối thượng mà có thể được nói về âm thanh. Không có trải nghiệm nào lớn hơn hiện hữu tuyệt đối, và họ đã không biết bất kì cái gì sâu hơn âm thanh mà họ có thể dùng để diễn đạt bản thân họ.
Mọi giai điệu và làn điệu và những thay đổi của chúng đều được sinh ra ở phương Đông. Đây là những việc mở rộng của kinh nghiệm về sự hiện hữu tuyệt đối dưới hình thể âm thanh. Tác phẩm âm nhạc, cũng như mọi hình thể nhảy múa, được bắt nguồn trong các đền và về sau đã được phát triển ở chỗ khác như các nghệ thuật đặc biệt. Chính là chỉ trong đền mà người sùng kính đã trải nghiệm hiệu quả của âm thanh trong vô vàn biến thể của nó – nhiều tới mức khó mà giữ bất kì việc đếm nào.
Mới bốn mươi năm trước một người ẩn dật đã sống ở Varanasi tên là Vishuddhananda. Ông ấy đã làm hàng trăm cuộc biểu diễn để chứng minh rằng qua âm thanh đặc biệt nào đó có thể giết chết ai đó. Ông sadhu này thường ngồi dưới mái vòm trong đền, ngôi đền mà có thể được nói là hoàn toàn không vệ sinh theo thuật ngữ hiện đại. Lần đầu tiên, trong sự hiện diện của ba bác sĩ từ Anh, một thực nghiệm đã được tiến hành. Các bác sĩ đem một con chim sẻ vào trong đền cùng họ. Vishuddhananda làm ra âm thanh nào đó: con chim sẻ run rẩy một chốc và thế rồi lăn ra chết. Các bác sĩ khám nó và công bố nó chết. Thế rồi Vishuddhananda làm âm thanh khác nào đó: con chim sẻ quay lại sống và bắt đầu run rẩy lần nữa. Thế rồi lần đầu tiên người ta nhận ra rằng tác động của âm thanh có thể tạo ra hiệu ứng đặc biệt.
Bây giờ chúng ta sẵn sàng chấp nhận rằng những hiệu ứng nào đó được tạo ra bởi âm thanh nào đó vì khoa học có thể chứng minh được điều đó. Bây giờ chúng ta nói rằng nếu một tia sáng đặc biệt chiếu lên thân thể bạn, nó sẽ mang tới kết quả đặc biệt; nếu một thuốc đặc biệt được chỉ định cho bệnh nhân, nó sẽ tạo ra kết quả đặc biệt; nếu một mầu đặc biệt được dùng, chúng mang tới hiệu quả đặc biệt. Thế thì tại sao âm thanh đặc biệt không gây ra hiệu quả nào đó?
Bây giờ có một số phòng thí nghiệm ở phương Tây đang tích cực tham gia vào trong điều tra mối quan hệ giữa âm thanh và sự sống, và hai hay ba phòng thí nghiệm đã đạt tới kết luận có ý nghĩa sâu sắc.
Trong hai phòng thí nghiệm các nhà khoa học đã thành công trong việc chứng minh rằng âm thanh đặc biệt có thể tạo ra nhiều sữa hơn trong việc sinh sữa mẹ. Qua những âm thanh nào đó cây cối có thể được làm cho nở hoa trong vòng hai tháng thay vì sáu tháng thông thường. Và bò cho lượng sữa gấp đôi nếu âm nhạc êm dịu được chơi vào lúc vắt sữa. Mọi trại sản xuất sữa ở Nga ngày nay sử dụng phương pháp mới nhất này vào lúc vắt sữa. Và một ngày không xa khi mọi quả và rau sẽ được mọc lên cùng với sự giúp đỡ của những âm thanh đặc biệt. Các trình diễn đã được làm trong các phòng thí nghiệm, và đó chỉ là vấn đề thời gian cho tới khi nó được làm trên qui mô lớn hơn. Ngay cả quả, rau và sữa bị ảnh hưởng bởi âm thanh, điều đáng không bị ảnh hưởng bởi âm thanh.
Ốm bệnh và mạnh khoẻ phụ thuộc vào những sóng âm đặc biệt, cho nên trong quá khứ mọi người đã làm những thu xếp vệ sinh trong đền của họ điều không phụ thuộc vào không khí theo bất kì cách nào. Họ không tin rằng chỉ việc cấp không khí dư thừa dẫn tới mạnh khoẻ tốt. Bằng không, điều không thể quan niệm được là qua thời kì năm nghìn năm họ đã không thể chạm tới ý tưởng về thông gió đúng trong chỗ tôn thờ của họ.
Những người ẩn dật Ấn Độ thường ngồi trong các hang động nơi không ánh sáng hay không khí nào đi vào, hay người đó ngồi trong các đền với cửa nhỏ nơi người ta phải cúi thấp để đi vào. Có một số đền nơi bạn phải nằm ra và bò để vào được; và thậm chí có một số đền người ta chỉ có thể đi vào bằng việc tụng. Mặc cho điều này, đã không có ốm bệnh nào tác động lên sức khoẻ của người sùng kính. Đó là kinh nghiệm của chúng ta qua hàng nghìn năm. Nhưng khi, dưới ảnh hưởng của người phương Tây, chúng ta có thể bắt đầu hoài nghi lần đầu tiên, cửa đền của chúng ta đã được làm lớn hơn và cửa sổ đã được lắp đặt. Chúng ta đã hiện đại hoá các đền; nhưng trong việc làm như vậy chúng ta đã cải tạo chúng thành nhà bình thường.
Độ vang và kiến trúc của đền có kết nối sâu sắc.
Có một qui định đặc biệt như với góc mà qua đó âm thanh được tạo ra. Có những qui định để tạo ra âm thanh trong khi đứng và trong khi ngồi. Thậm chí còn có qui định về âm thanh có thể được tạo ra chỉ khi nằm, vì tác động của âm thanh sẽ có ảnh hưởng nào đó được tạo ra khi đứng, và sẽ lại thay đổi khi được tạo ra lúc bạn ngồi. Điều cũng được làm rõ ràng là âm thanh nào sẽ được tạo ra cùng nhau và âm thanh nào được tạo ra một cách tách biệt. Cho nên điều thú vị cần lưu ý là mơ hồ được tạo ra khi văn học Veda được dịch sang ngôn ngữ phương Tây.
Bạn có thể tự hỏi liệu đền có thể được dùng ngày nay trong những thời đại đã thay đổi này không. Có chứ, điều đó là có thể, nhưng các tu sĩ chính thống theo tập quán, người ở trong đền ngày nay sẽ không có khả năng giải thích điều đang xảy ra và thế nào, trong các đền vào thời cổ đại. Ông ấy vẫn có chìa khoá nhưng ông ấy không có bất kì ý tưởng nào về những bí mật ẩn kín đằng sau nó. Toàn thể triết lí và khoa học của đền vẫn có thể hữu dụng ngày nay. Và chúng ta có thể tạo ra những đền tốt hơn bây giờ vì chúng ta có vật liệu xây dựng tốt hơn. Chúng ta có thể thiết lập toàn thể hệ thống âm thanh theo cách mà âm thanh có thể được khuếch đại lên hàng nghìn lần. Tường có thể được làm nhạy cảm tới mức nếu bạn tụng mật chú “Aum” một lần, tường sẽ vọng lại nó hàng nghìn lần.
Ngày nay chúng ta có những công cụ tốt hơn, nhưng chúng ta phải biết chìa khoá mở các bí mật của con người của chúng ta.
Vào thời xưa đã phải có ít nhất một cửa ra vào đền, nhưng bây giờ chúng ta có thể xây dựng đền không có cửa ra vào nào. Vào thời xưa nói chung những người xây đền đã sống trong các ngôi nhà như lều, được làm bằng phân bò và đất sét. Họ đã làm điều tốt nhất họ có thể làm trong những giới hạn của họ, và điều họ đã làm là lớn lao. Ngày nay chúng ta có các kĩ năng công nghệ tuyệt vời, nhưng chúng ta không có khả năng được lợi từ chúng.
Từ “Điều huyền bí ẩn kín”, Ch.1