Trong thể thứ tư, thể tâm trí, mơ và thực tại trở thành hàng xóm. Bề ngoài của chúng giống nhau tới mức có mọi khả năng là cái này sẽ bị phán xét là cái kia. Thể tâm trí có thể có mơ là hiện thực như cái thực. Và có những phương pháp để tạo ra những giấc mơ như vậy – yoga, mật tông và các phương pháp khác. Người đang thực hành nhịn ăn, đơn độc, bóng tối, sẽ tạo ra kiểu mơ thứ tư, mơ tâm trí. Chúng sẽ là thực thế, thực hơn là hiện thực đang bao quanh chúng ta.
Trong thể thứ tư, tâm trí mang tính sáng tạo toàn bộ – không bị cản trở bởi bất kì cái gì đối thể, không bị cản trở bởi biên giới vật chất. Bây giờ nó là tự do toàn bộ để sáng tạo. Nhà thơ, họa sĩ, tất cả đều sống trong kiểu mơ thứ tư; mọi nghệ thuật được tạo ra bởi kiểu mơ thứ tư này. Người có thể mơ trong cõi thứ tư có thể trở thành nghệ sĩ lớn. Nhưng không người nào biết.
Trong thể thứ tư, người ta phải nhận biết về bất kì kiểu sáng tạo tâm trí nào. Người ta phải không phóng chiếu bất kì cái gì; bằng không việc sáng tạo tâm trí sẽ được phóng chiếu. Người ta phải không ao ước bất kì cái gì; bằng không có mọi khả năng rằng ao ước sẽ được hoàn thành. Không chỉ về bên trong, ngay cả bên ngoài ao ước này có thể được hoàn thành. Trong thể thứ tư, tâm trí là mạnh mẽ thế, trong như pha lê thế, vì thể thứ tư là nhà cuối cùng cho tâm trí. Bên ngoài thể này, vô trí bắt đầu.
Thể thứ tư là cội nguồn của tâm trí, cho nên bạn có thể tạo ra bất kì cái gì. Người ta phải thường xuyên nhận biết rằng không có ao ước, không có tưởng tượng, không hình ảnh; không thượng đế, không guru. Bằng không tất cả chúng sẽ được tạo ra cho bạn. Bạn sẽ là đấng sáng tạo! Nhìn thấy chúng là phúc lạc tới mức người ta khao khát tạo ra chúng. Đây là rào chắn cuối cùng cho sadhaka, người tìm kiếm. Nếu người ta đi cắt qua điều này, người ta sẽ không đối diện với rào chắn lớn hơn. Nếu bạn nhận biết, nếu bạn chỉ là nhân chứng trong thể thứ tư, thế thì bạn biết cái thực. Bằng không bạn liên tục mơ. Và không thực tại nào là so sánh được với những mơ này. Chúng sẽ là cực lạc; không cực lạc nào là sánh được. Cho nên người ta phải nhận biết về cực lạc, về hạnh phúc, về phúc lạc, và người ta phải thường xuyên nhận biết về bất kì kiểu hình ảnh nào. Khoảnh khắc có hình ảnh, tâm trí thứ tư bắt đầu chảy vào trong mơ. Hình ảnh này dẫn sang hình ảnh tiếp, và bạn liên tục mơ.
Kiểu mơ thứ tư chỉ có thể được ngăn cản nếu bạn là nhân chứng. Việc chứng kiến tạo ra khác biệt, vì nếu việc mơ có đó bạn sẽ bị đồng nhất với nó. Đồng nhất là mơ khi có liên quan tới thể thứ tư. Trong thể thứ tư, tâm trí nhận biết và chứng kiến là con đường hướng tới cái thực.
Trong thể thứ năm mơ và thực trở thành một. Mọi kiểu nhị nguyên bị quăng đi. Không có vấn đề về bất kì nhận biết nào bây giờ. Cho dù bạn vô nhận biết, bạn sẽ nhận biết về vô nhận biết của bạn. Bây giờ việc mơ trở thành chỉ là sự phản xạ của cái thực. Có khác biệt, nhưng không phân biệt. Nếu tôi thấy bản thân tôi trong gương, không có phân biệt giữa tôi và người được phản xạ, nhưng có khác biệt. Tôi là cái thực và người được phản xạ là không thực.
Tâm trí thứ năm, nếu nó đã tu tập các quan niệm khác nhau, có thể có ảo vọng về việc biết bản thân nó vì nó đã thấy bản thân nó được phản xạ trong gương. Nó sẽ biết bản thân nó, nhưng không như nó vậy – chỉ như nó được phản xạ. Đây là khác biệt duy nhất. Nhưng theo một cách nào đó, điều đó là nguy hiểm. Nguy hiểm là ở chỗ bạn có thể trở nên được thỏa mãn với cái phản xạ, và hình ảnh phản chiếu qua gương sẽ bị coi là cái thực.
Khi có liên quan tới bản thân thể thứ năm, không có nguy hiểm thực nếu điều này xảy ra, nhưng nó là nguy hiểm khi có liên quan tới thể thứ sáu. Nếu bạn đã thấy bản thân bạn chỉ trong gương, thế thì bạn không thể đi ngang qua biên giới của thể thứ năm và đi tới thể thứ sáu. Bạn không thể đi qua bất kì biên giới nào xuyên qua gương. Cho nên đã từng có những người vẫn còn lại mãi ở thể thứ năm. Những người nói rằng họ là hồn vô hạn và từng hồn có tính cá nhân riêng của nó – những người này vẫn còn ở thể thứ năm. Họ đã biết bản thân họ, nhưng không trực tiếp, không nhìn thẳng – chỉ qua trung gian của gương.
Gương này tới từ đâu? Nó tới qua chuyên tâm vào các quan niệm: “Tôi là hồn. Vĩnh hằng, bất tử. Bên ngoài diệt, bên ngoài sinh.” Quan niệm bản thân người ta như hồn mà không biết điều đó là tạo ra gương. Thế thì bạn sẽ không biết bản thân bạn như bạn vậy, mà biết như bạn được soi gương qua các quan niệm của bạn. Khác biệt duy nhất sẽ là thế này: nếu tri thức tới qua gương nó là mơ và nếu nó là trực tiếp, tức khắc, không có bất kì gương nào, thế thì nó là thực. Đây là khác biệt duy nhất, nhưng đó là khác biệt lớn – không trong quan hệ với các thể mà bạn đã đi ngang qua, nhưng trong quan hệ với các thể mà vẫn cần được xuyên thấu.
Làm sao người ta có thể nhận biết liệu mình đang mơ ở thể thứ năm hay đang sống cái thật? Chỉ có một cách: bỏ mọi kiểu kinh sách, rời khỏi mọi kiểu triết lí. Bây giờ sẽ không còn guru nữa; bằng không guru sẽ trở thành gương. Từ đây trở đi, bạn là một mình toàn bộ. Không ai có thể được lấy làm người hướng dẫn, nếu không, người hướng dẫn sẽ trở thành gương.
Từ giờ trở đi, tính một mình là toàn bộ và đầy đủ. Không phải tính đơn độc mà tính một mình. Tính đơn độc bao giờ cũng liên quan tới người khác; tính một mình liên quan tới bản thân người ta. Tôi cảm thấy đơn độc khi không có mối nối giữa tôi và bất kì ai khác, nhưng tôi cảm thấy một mình khi tôi hiện hữu.
Bây giờ người ta phải một mình trong mọi chiều hướng: lời, quan niệm, lí thuyết, triết lí, học thuyết; guru, kinh sách; Ki tô giáo, Hindu giáo; Phật, Christ, Krishna, Mahavira…. Người ta phải một mình bây giờ; bằng không bất kì cái gì đang hiện diện sẽ trở thành gương. Phật sẽ trở thành gương bây giờ. Rất thân thương, nhưng rất nguy hiểm.
Nếu bạn tuyệt đối một mình, sẽ không có gì trong đó bạn có thể được phản xạ. Cho nên thiền là từ dành cho thể thứ năm. Nó ngụ ý là một mình toàn bộ, tự do khỏi mọi kiểu thiền. Nó ngụ ý là hiện hữu mà không có tâm trí. Nếu có bất kì kiểu tâm trí nào, cái đó sẽ trở thành gương và bạn sẽ được phản xạ trong nó. Người ta bây giờ phải là vô trí, không có suy nghĩ, không suy tư.
Trong thể thứ sáu không có gương. Bây giờ chỉ càn khôn hiện hữu. Bạn đã bị mất đi. Bạn không còn nữa; người mơ không có. Nhưng giấc mơ vẫn có thể tồn tại mà không có người mơ. Và khi có giấc mơ mà không có người mơ, nó có vẻ giống như thực tại đích thực. Không có tâm trí, không có người nghĩ, cho nên bất kì cái gì được biết là được biết. Nó trở thành tri thức của bạn. Các huyền thoại về sự sáng tạo tới; chúng phảng phất qua. Bạn không có; mọi sự chỉ phảng phất qua. Không ai có đó để phán xét; không ai có đó để mơ.
Nhưng tâm trí, cái không hiện hữu, vẫn còn có đó. Tâm trí bị triệt tiêu vẫn còn tồn tại – không như cá nhân, nhưng như toàn thể càn khôn. Bạn không hiện hữu, nhưng Brahma hiện hữu. Đó là lí do tại sao họ nói rằng toàn thế giới là giấc mơ của Brahma. Toàn thế giới này là mơ, maya. Không phải là mơ của bất kì cá nhân nào, nhưng là mơ của cái toàn bộ, cái toàn thể. Bạn không có, nhưng cái toàn bộ đang mơ.
Bây giờ phân biệt duy nhất là liệu mơ có tính khẳng định không. Nếu nó có tính khẳng định, nó là ảo vọng, nó là mơ, vì theo nghĩa tối thượng chỉ cái phủ định hiện hữu. Khi mọi thứ đã trở thành một phần của cái vô hình tướng, khi mọi thứ đã quay về cội nguồn, thế thì mọi thứ hiện hữu và đồng thời không hiện hữu. Cái khẳng định là yếu tố duy nhất còn lại. Nó phải bị nhảy qua.
Cho nên nếu, trong thể thứ sáu, cái khẳng định bị mất, bạn xuyên thấu vào trong thể thứ bẩy. Cái thực của thể thứ sáu là cánh cửa của thể thứ bẩy. Nếu không có cái gì khẳng định – không thần thoại, không hình ảnh – thế thì mơ đã dừng lại. Thế thì chỉ có cái đang hiện hữu: như vậy. Bây giờ không cái gì tồn tại ngoài sự tồn tại. Mọi thứ không có, nhưng cội nguồn có. Cây không có, nhưng hạt mầm có.
Những người đã biết đã gọi kiểu tâm trí này là samadhi có chủng tử – samadhi sabeej. Mọi thứ đã bị mất; mọi thứ đã trở về cội nguồn, hạt mầm càn khôn. Cây không có, nhưng hạt mầm có. Nhưng từ hạt mầm, việc mơ vẫn là có thể, cho nên ngay cả hạt mầm cũng phải bị phá hủy.
Trong thể thứ bẩy, không có mơ không có thực tại. Bạn chỉ có thể thấy cái gì đó thực cho tới điểm mà việc mơ là có thể. Nếu không có khả năng nào của mơ, thế thì cả cái thực lẫn ảo vọng không tồn tại. Cho nên thể thứ bẩy là trung tâm. Bây giờ, mơ và thực đã trở thành một. Không có khác biệt. Hoặc bạn mơ về tính không hoặc bạn biết về tính không, nhưng tính không vẫn còn là một thứ.
Nếu tôi mơ về bạn, điều đó là ảo vọng. Nếu tôi nhìn thấy bạn điều đó là thực. Nhưng nếu tôi mơ về việc thiếu vắng của bạn hay tôi thấy việc thiếu vắng của bạn, không có khác biệt. Nếu bạn mơ về việc thiếu vắng của bất kì cái gì, mơ này sẽ là cùng một điều như bản thân việc thiếu vắng. Chỉ dưới dạng cái gì đó khẳng định mới có khác biệt thực. Cho nên cho tới thể thứ sáu có khác biệt. Trong thể thứ bẩy chỉ hư không còn lại. Có việc thiếu vắng ngay cả của hạt mầm, chủng tử. Đây là nirbeej samadhi, samadhi vô chủng tử. Bây giờ không có khả năng nào của việc mơ.
Cho nên có bẩy kiểu mơ và bẩy kiểu thực tại. Chúng xuyên thấu lẫn nhau. Vì điều này, có nhiều mơ hồ. Nhưng nếu bạn làm phân biệt giữa kiểu thứ bẩy, nếu bạn trở nên rõ ràng về nó, điều đó sẽ giúp đỡ nhiều. Tâm lí học vẫn còn xa xôi với việc biết về mơ. Điều nó biết chỉ là về sinh lí, và đôi khi về ê te. Nhưng ê te nữa được diễn giải như sinh lí.
Jung đã xuyên thấu sâu hơn một chút so với Freud, nhưng phân tích của ông ấy về tâm trí con người được đối xử như có tính huyền thoại, tôn giáo. Dầu vậy, ông ấy có hạt mầm. Nếu tâm lí học phương Tây được phát triển, chính là qua Jung chứ không qua Freud. Freud đã là người tiên phong trở thành rào chắn cho tiến bộ thêm nữa nếu việc gắn bó với bước tiến của ông ấy trở thành sự ám ảnh. Cho dù Freud là lỗi thời so với bây giờ, tâm lí học phương Tây vẫn còn bị ám ảnh với việc bắt đầu của Freud. Freud phải trở thành một phần của lịch sử bây giờ. Tâm lí học phải tiến xa hơn.
Ở Mĩ, họ đang cố học về việc mơ thông qua phương pháp phòng thí nghiệm. Có nhiều phòng thí nghiệm mơ, nhưng phương pháp được dùng chỉ liên quan tới sinh lí. Yoga, mật tông và các huấn luyện bí truyền khác phải được đưa vào nếu toàn thể thế giới mơ cần được biết. Mọi kiểu mơ đều có kiểu thực tại song song và nếu toàn thể ảo vọng không thể được biết, nếu toàn thể thế giới của ảo vọng không thể được biết, thế thì không thể nào biết được cái thực. Chính là chỉ qua ảo vọng mà cái thực có thể được biết.
Nhưng đừng coi điều tôi đã nói như lí thuyết, hệ thống. Chỉ làm nó thành điểm bắt đầu, và bắt đầu mơ với tâm trí có ý thức. Chỉ khi bạn trở nên có ý thức trong mơ của bạn, cái thực mới có thể được biết.
Chúng ta không có ý thức ngay cả tới thể vật lí của chúng ta. Chúng ta vẫn còn vô nhận biết về nó. Chỉ khi bộ phận nào đó bị ốm bệnh chúng ta mới trở nên nhận biết. Người ta phải trở nên nhận biết về thân thể trong mạnh khỏe. Nhận biết về thân thể trong bệnh chỉ là biện pháp khẩn cấp. Nó là tự nhiên, quá trình dựng sẵn. Tâm trí của bạn phải nhận biết khi phần nào đó của thân thể bị bệnh để cho nó có thể được chăm sóc, nhưng khoảnh khắc nó trở nên ổn thoải trở lại bạn trở nên im lìm về nó.
Bạn phải trở nên nhận biết về thân thể riêng của bạn: cách làm việc của nó, việc cảm tinh tế của nó, âm nhạc của nó, im lặng của nó. Lúc thì thân thể im lặng; lúc thì nó ồn ào; lúc thì nó thảnh thơi. Việc cảm là khác trong từng trạng thái tới mức điều không may là chúng ta không nhận biết về nó. Khi bạn đi ngủ, có những thay đổi tinh tế trong thân thể bạn. Khi bạn ra khỏi giấc ngủ buổi sáng, lại có những thay đổi. Người ta phải trở nên nhận biết về chúng. Khi bạn sắp mở mắt ra vào buổi sáng, đừng mở chúng ra ngay. Khi bạn đã trở nên nhận biết rằng giấc ngủ qua rồi, trở nên nhận biết về thân thể bạn đi. Đừng mở mắt ra ngay. Cái gì đang diễn ra? Thay đổi lớn đang xảy ra bên trong. Giấc ngủ đang rời khỏi bạn và việc thức tỉnh đang tới. Bạn đã thấy mặt trời buổi sáng mọc, nhưng chưa bao giờ thấy thân thể bạn dậy. Nó có cái đẹp riêng của nó. Có buổi sáng trong thân thể bạn và buổi tối. Nó được gọi là sandhya: khoảnh khắc của biến đổi, khoảnh khắc của thay đổi.
Khi bạn đi ngủ, im lặng quan sát điều đang xảy ra. Giấc ngủ sẽ tới, nó sắp tới. Nhận biết! Chỉ thế thì bạn có thể thực sự trở nên nhận biết về thân thể vật lí của bạn. Và khoảnh khắc bạn trở nên nhận biết về nó, bạn sẽ biết việc mơ sinh lí là gì. Thế rồi vào buổi sáng bạn sẽ có khả năng nhớ giấc mơ sinh lí đã là gì và đã không là gì. Nếu bạn biết các cảm giác bên trong, nhu cầu bên trong, nhịp điệu bên trong của thân thể của bạn, thế thì khi chúng được phản xạ trong mơ của bạn, bạn sẽ có khả năng hiểu ngôn ngữ này.
Chúng ta đã không hiểu ngôn ngữ của các thể riêng của chúng ta. Thân thể có trí huệ riêng của nó; nó có hàng nghìn và hàng nghìn năm kinh nghiệm. Thân thể của tôi có kinh nghiệm của bố mẹ tôi và bố mẹ của họ và vân vân, hàng thế kỉ và thế kỉ mà trong đó hạt mầm của thân thể tôi đã phát triển thành cái nó là vậy. Nó có ngôn ngữ riêng của nó. Người ta phải hiểu ngôn ngữ đó trước hết. Khi bạn hiểu nó, bạn sẽ biết giấc mơ sinh lí là gì. Và thế thì, đến sáng, bạn có thể tách rời mơ sinh lí khỏi mơ phi sinh lí.
Chỉ thế thì khả năng mới sẽ mở ra: nhận biết về thể ê te của bạn. Chỉ thế thôi, không trước đó. Bạn trở nên tinh tế hơn. Bạn có thể trải nghiệm những mức tinh tế hơn của âm thanh, hương thơm, ánh sáng. Thế thì khi bạn bước đi, bạn biết rằng thể sinh lí đang bước; thể ê te không bước. Sự khác biệt là rõ như pha lê. Bạn đang ăn. Thể vật lí đang ăn, thể ê te không ăn. Có khát ê te, đói ê te, khao khát ê te, nhưng những thứ này chỉ có thể được thấy khi thể vật lí được biết đầy đủ. Thế thì dần dần, các thể khác sẽ trở nên được biết.
Việc mơ là một trong những chủ đề lớn lao nhất. Nó vẫn còn chưa được khám phá ra, chưa được biết, bị ẩn kín. Nó là một phần của tri thức bí mật. Nhưng bây giờ khoảnh khắc đã tới khi mọi thứ mà là bí mật phải được đưa ra công khai. Mọi thứ đã từng được che giấu mãi tới giờ phải không bị che giấu thêm nữa, nếu không điều đó có thể chứng tỏ nguy hiểm.
Trong quá khứ điều cần thiết là một số điều vẫn còn là bí mật, vì tri thức trong tay người dốt nát có thể là nguy hiểm. Đây là điều đang xảy ra cùng với tri thức khoa học ở phương Tây. Bây giờ các nhà khoa học nhận biết về khủng hoảng này và họ muốn tạo ra khoa học bí mật. Vũ khí hạt nhân phải không được để cho các chính khách biết. Những khám phá thêm nữa phải vẫn còn không được biết tới. Chúng ta phải đợi đến lúc mà con người trở nên có năng lực tới mức tri thức có thể được đưa ra công khai và nó sẽ không là nguy hiểm.
Tương tự, trong cõi tâm linh, nhiều thứ đã được biết ở phương Đông. Nhưng nếu nó rơi vào trong tay của những người dốt nát, điều đó sẽ chứng tỏ nguy hiểm, cho nên chìa khóa được giấu kín. Tri thức được làm thành bí mật, bí truyền. Nó được truyền từ người sang người một cách rất thận trọng. Nhưng bây giờ, vì tiến bộ khoa học, khoảnh khắc đã tới để nó được đưa ra công khai. Khoa học sẽ chứng tỏ là nguy hiểm nếu các chân lí tâm linh, bí truyền vẫn còn không được biết tới. Chúng phải được làm thành công khai để cho tri thức tâm linh sẽ có khả năng giữ cùng nhịp với tri thức khoa học.
Mơ là một trong những cõi bí truyền lớn nhất. Tôi đã nói cái gì đó về nó để cho bạn có thể bắt đầu nhận biết, nhưng tôi đã không nói cho bạn toàn thể khoa học này. Nó không cần thiết mà cũng không giúp đỡ. Tôi đã bỏ lại kẽ hở. Nếu bạn đi vào trong, những kẽ hở này sẽ được lấp đầy một cách tự động. Điều tôi đã nói đơn giản là tầng bên ngoài. Nó không đủ để bạn có khả năng làm ra lí thuyết về nó, nhưng là đủ cho bạn bắt đầu.
Từ “Tâm lí của bí truyền”, ch.6