Yoga và lưu tâm- chuyển từ thân thể sang tâm trí

Việc khác: asanas và pranayama là những giúp đỡ về thân thể. Chúng là quan trọng, nhưng chúng chỉ là giúp đỡ vật lí. Nếu tâm trí của bạn đang trong xung đột thế thì chúng sẽ không giúp gì mấy, vì thân thể và tâm trí không thực sự là hai thứ. Chúng là hai phần của một thứ. Bạn không là thân thể và tâm trí; bạn là thân/tâm. Bạn là tâm thần/thân thể hay thân thể/ linh hồn. Chúng ta nói về thân thể như một thứ và tâm trí như cái gì đó khác, nhưng thân thể và tâm trí là hai cực của một năng lượng. Thân thể là thô và tâm trí là tinh, nhưng năng lượng là cùng một.

Người ta phải làm việc từ hai cực. Với thân thể có hatha yoga: asanas, pranayama, vân vân; và với tâm trí có raga yoga và các yoga khác mà về căn bản liên quan tới thái độ tâm trí của bạn.

Thân thể và tâm trí là một năng lượng. Chẳng hạn, nếu bạn có thể kiểm soát hơi thở của bạn khi bạn giận, giận sẽ chết. Nếu bạn có thể liên tục thở có nhịp điệu, giận không thể chế ngự bạn. Theo cùng cách, nếu bạn liên tục thở có nhịp điệu, đam mê dục không thể chế ngự được bạn. Nó sẽ có đó, nhưng nó sẽ không trở nên biểu lộ. Không người nào sẽ biết nó có đó. Ngay cả bạn sẽ không có khả năng biết nó. Cho nên dục có thể bị kìm nén; giận có thể bị kìm nén. Qua việc thở có nhịp điệu bạn có thể kìm nén chúng nhiều tới mức bản thân bạn thậm chí sẽ không nhận biết về nó. Nhưng giận hay dục sẽ vẫn còn đó. Thân thể đã kìm nén nó, nhưng nó vẫn còn bên trong, không bị chạm tới.

Người ta phải làm việc với cả thân thể và tâm trí. Thân thể phải được huấn luyện qua phương pháp luận yoga, và tâm trí qua nhận biết. Bạn sẽ cần nhiều nhận biết hơn nếu bạn thực hành yoga vì mọi sự sẽ trở nên tinh tế hơn. Nếu bạn giận, bạn bình thường có thể trở nên nhận biết về nó vì nó thô thế. Nhưng nếu bạn thực hành pranayama, bạn sẽ cần nhiều nhận biết hơn, nhiều nhạy cảm sắc nét hơn để nhận biết về giận, vì bây giờ giận sẽ trở nên tinh tế hơn. Thân thể không hợp tác với nó cho nên sẽ không có việc diễn đạt vật lí của nó chút nào.

Nếu mọi người thực hành các kĩ thuật nhận biết và đồng thời thực hành các phương pháp yoga, họ sẽ biết các lĩnh vực sâu hơn của nhận biết. Bằng không họ sẽ chỉ nhận biết về cái thô. Nếu bạn thay đổi cái thô nhưng không thay đổi cái tinh, bạn sẽ lâm vào thế tiến thoái lưỡng nan. Bây giờ xung đột sẽ khẳng định bản thân nó theo cách mới.

Yoga giúp đỡ, nhưng nó chỉ là một phần. Phần kia là điều Phật gọi là lưu tâm. Thực hành yoga để cho thân thể trở nên có nhịp điệu và hợp tác với chuyển động bên trong của bạn, và đồng thời thực hành lưu tâm.

Lưu tâm tới việc thở đi. Trong yoga, bạn phải thay đổi quá trình thở. Trong lưu tâm, bạn phải nhận biết về việc thở như nó vậy. Chỉ là nhận biết về nó. Nếu bạn có thể trở nên nhận biết về việc thở của bạn, thế thì bạn có thể trở nên nhận biết về quá trình ý nghĩ của bạn; bằng không thì không đâu.

Những người cố trở nên nhận biết về quá trình ý nghĩ của họ một cách trực tiếp, sẽ không có khả năng làm điều đó. Điều đó sẽ rất gian nan, tẻ nhạt. Việc thở là cánh cửa tới tâm trí. Nếu bạn dừng việc thở trong một khoảnh khắc, ý nghĩ của bạn cũng sẽ dừng lại. Khi việc thở dừng lại, quá trình ý nghĩ dừng lại. Nếu suy nghĩ của bạn là hỗn độn, việc thở của bạn sẽ hỗn độn. Việc thở sẽ đồng thời ảnh hưởng tới quá trình suy nghĩ của bạn.

Phật nói về anapanasati: yoga của nhận biết về hơi thở tới và đi. Ông ấy nói, “Bắt đầu từ đây.” Và đó là việc bắt đầu đúng. Người ta phải bắt đầu từ việc thở và không bao giờ từ bản thân quá trình ý nghĩ. Khi bạn có thể cảm thấy những chuyển động tinh tế của hơi thở, chỉ thế thì bạn sẽ có khả năng cảm thấy những chuyển động tinh tế của ý nghĩ.

Nhận biết về quá trình ý nghĩ sẽ làm thay đổi phẩm chất của tâm trí; asanas và pranayama sẽ thay đổi phẩm chất của thân thể. Thế thì một khoảnh khắc tới khi thân thể và tâm trí của bạn là một, không có bất kì xung đột chút nào. Khi chúng được đồng bộ, bạn không là thân thể không là tâm trí. Lần đầu tiên, bạn biết bản thân bạn như cái Ngã. Bạn siêu việt.

Bạn có thể siêu việt chỉ khi không có xung đột. Trong khoảnh khắc hài hoà này khi thân thể và tâm trí là một, không có xung đột, bạn siêu việt trên cả hai. Bạn không là cái nào. Bây giờ bạn là hư không theo nghĩa: vô-vật. Bạn đơn giản là tâm thức. Không ý thức về cái gì đó, nhưng chỉ là bản thân nhận biết.

Nhận biết này mà không là nhận biết về bất kì cái gì, tâm thức này mà không có ý thức về bất kì cái gì, là khoảnh khắc của bùng nổ. Tiềm năng của bạn trở thành thực tại. Bạn bùng nổ trong lĩnh vực mới: cái tối thượng. Cái tối thượng này là mối quan tâm của mọi tôn giáo.

Có nhiều cách thế để đạt tới điều tối thượng này. Người ta có thể nói về kundalini hay không; điều đó là không quan trọng. Kundalini chỉ là lời. Bạn có thể dùng lời khác. Nhưng điều có ý nghĩa bởi lời ‘kundalini’ nhất định có đó theo cách nào đó này khác như dòng chảy năng lượng vào trong.

Dòng chảy vào trong này là cách mạng duy nhất, tự do duy nhất. Bằng không bạn sẽ liên tục tạo ra nhiều địa ngục hơn, vì bạn càng đi ra ngoài, bạn càng xa với bản thân bạn hơn. Và bạn càng xa với bản thân bạn, bạn càng ốm và bệnh.

Kundalini là nguồn gốc của mọi sự sống, nhưng bạn bị cắt đứt khỏi nó theo nhiều cách thế. Thế thì bạn trở thành người ngoài với bản thân bạn và bạn không biết cách quay về nhà. Việc quay về này là khoa học của yoga. Khi có liên quan tới biến đổi con người, kundalini yoga là khoa học tinh tế nhất.

Bạn đã hỏi tại sao các phương pháp truyền thống là hệ thống và phương pháp của tôi là hỗn độn. Các phương pháp truyền thống là hệ thống vì những người thời đầu đã là khác, những người mà các phương pháp đó đã được phát triển ra. Con người hiện đại là hiện tượng rất mới. Không phương pháp truyền thống nào có thể được dùng đích xác như nó tồn tại, vì con người hiện đại không bao giờ đã tồn tại trước đây. Cho nên theo một cách nào đó, mọi phương pháp truyền thống đã trở thành không liên quan.

Chẳng hạn, thân thể đã thay đổi nhiều thế. Bây giờ nó không tự nhiên như nó đã vậy vào những ngày Patanjali đã phát triển hệ thống yoga của ông ấy. Nó là tuyệt đối khác. Nó bị nhiễm thuốc tới mức không phương pháp truyền thống nào có thể giúp đỡ.

Trong quá khứ, thuốc đã không được phép với người hatha yoga, tuyệt đối không được phép, vì những thay đổi hoá chất sẽ không chỉ làm cho các phương pháp thành khó, mà còn có hại. Nhưng toàn thể bầu không khí bây giờ là nhân tạo: không khí, nước, xã hội, điều kiện sống. Không cái gì là tự nhiên. Bạn được sinh ra trong điều nhân tạo; bạn phát triển trong nó. Các phương pháp truyền thống như vậy sẽ chứng tỏ là có hại ngày nay. Chúng sẽ phải được thay đổi tương ứng với tình huống hiện đại.

Điều khác: phẩm chất của tâm trí về căn bản đã thay đổi. Vào thời của Patanjali, trung tâm nhân cách con người đã không ở não; nó đã ở tim. Và trước đó, nó thậm chí không ở tim. Nó còn ở thấp hơn, gần rốn. Hatha yoga đã phát triển các phương pháp mà là hữu dụng, có nghĩa, cho người có trung tâm nhân cách ở rốn. Thế rồi trung tâm này đã trở thành tim. Chỉ thế thì bhakti yoga có thể được dùng. Bhakti yoga đã phát triển trong thời trung cổ vì đó là khi trung tâm nhân cách đã đổi từ rốn tới tim.

Phương pháp phải thay đổi tương ứng theo người mà nó được áp dụng. Bây giờ, ngay cả bhakti yoga cũng không liên quan. Trung tâm đã đi thậm chí còn xa hơn với rốn. Bây giờ, trung tâm là não. Đó là lí do tại sao các chỉ dạy như của Krishnamurti có sức hấp dẫn. Không phương pháp nào được cần, không kĩ thuật nào được cần – duy nhất việc hiểu. Nhưng nếu nó chỉ là việc hiểu lời, chỉ trí tuệ, không cái gì thay đổi, không cái gì được biến đổi. Nó lại trở thành việc tích luỹ tri thức.

Tôi dùng các phương pháp hỗn độn thay vì phương pháp có hệ thống vì phương pháp hỗn độn là rất giúp đỡ trong việc đẩy trung tâm xuống dưới não. Trung tâm không thể bị đẩy xuống qua bất kì phương pháp có hệ thống nào vì việc hệ thống hoá là công việc trí não. Qua phương pháp có hệ thống, não sẽ được làm mạnh thêm; nhiều năng lượng sẽ được thêm cho nó.

Qua phương pháp hỗn độn, não bị triệt tiêu. Nó chẳng có gì để làm. Phương pháp này là hỗn độn tới mức trung tâm tự động bị đẩy từ não sang tim. Nếu bạn làm phương pháp Thiền Động của tôi một cách mạnh mẽ, không hệ thống, hỗn độn, trung tâm của bạn chuyển tới tim. Thế rồi có việc tẩy rửa. Việc tẩy rửa được cần vì tim của bạn bị kìm nén thế, do não của bạn. Não của bạn đã tiếp quản con người bạn nhiều tới mức nó chi phối bạn. Không có chỗ cho tim, cho nên các khao khát của tim bị kìm nén. Bạn chưa bao giờ cười một cách toàn tâm, chưa bao giờ sống một cách toàn tâm, chưa bao giờ làm bất kì cái gì một cách toàn tâm. Não bao giờ cũng bước vào để hệ thống hoá, để làm mọi thứ thành toán học, và tim bị kìm nén.

Cho nên thứ nhất, phương pháp hỗn độn được cần để đẩy trung tâm của ý thức khỏi não hướng tới tim. Thế rồi tẩy rửa được cần để làm nhẹ gánh cho tim, để tống ra những kìm nén, để làm tim mở ra. Nếu tim trở nên nhẹ và không nặng gánh, thế thì trung tâm của ý thức được đẩy xuống còn thấp hơn; nó tới rốn. Rốn là nguồn sinh lực, nguồn mầm mà từ đó mọi thứ khác tới: thân thể và tâm trí và mọi thứ.

Tôi dùng phương pháp hỗn độn này rất có cân nhắc. Phương pháp luận hệ thống sẽ không giúp đỡ bây giờ, vì não sẽ dùng nó như công cụ riêng của nó. Việc tụng bhajan cũng không thể giúp đỡ bây giờ, vì tim bị nặng gánh tới mức nó không thể nở hoa thành việc tụng thực. Việc tụng chỉ có thể là lối thoát cho nó; lời cầu nguyện chỉ có thể là lối thoát. Tim không thể nở hoa thành lời cầu nguyện vì nó bị nặng gánh thế với những kìm nén. Tôi đã không thấy một người nào có thể đi sâu vào lời cầu nguyện đích thực. Lời cầu nguyện là không thể được vì bản thân yêu đã trở thành không thể được.

Ý thức phải được đẩy xuống tới nguồn, tới gốc. Chỉ thế thì mới có khả năng của biến đổi. Cho nên tôi dùng các phương pháp hỗn động để đẩy ý thức xuống khỏi bộ não.

Bất kì khi nào bạn ở trong hỗn độn, não dừng làm việc. Chẳng hạn, nếu bạn đang lái xe và đột nhiên ai đó chạy ở phía trước bạn, bạn phản ứng bất thần tới mức nó không thể là công việc của não. Não cần thời gian. Nó nghĩ về cái gì làm và cái gì không làm. Cho nên bất kì khi nào có khả năng của tai nạn và bạn nhấn phanh, bạn cảm thấy một cảm giác gần rốn của bạn, dường như đó đã là bụng bạn đang phản ứng. Ý thức của bạn bị đẩy xuống rốn vì tai nạn này. Nếu tai nạn có thể được tính toán trước, não chắc đã có khả năng giải quyết nó; nhưng khi bạn ở trong tai nạn, cái gì đó không biết xảy ra. Thế thì bạn để ý rằng ý thức đã chuyển tới rốn.

Nếu bạn hỏi một sư Thiền Nhật Bản, “Ông nghĩ từ đâu?” ông ta sẽ để tay vào bụng. Khi người phương Tây tới tiếp xúc với các sư Nhật Bản lần đầu tiên, họ không thể hiểu được. “Vô nghĩa làm sao! Làm sao bạn có thể nghĩ từ bụng được?” Nhưng việc đáp lại của Thiền là có nghĩa. Ý thức có thể dùng bất kì trung tâm nào của thân thể, và trung tâm gần nhất với cội nguồn là rốn. Não là xa nhất khỏi cội nguồn, cho nên năng lượng sống chuyển ra ngoài, trung tâm của ý thức sẽ trở thành não. Và nếu năng lượng sống chuyển vào trong, chung cuộc rốn sẽ trở thành trung tâm.

Phương pháp hỗn độn được cần để đẩy ý thức tới rễ của nó, vì chỉ từ rễ mà biến đổi là có thể. Bằng không bạn sẽ liên tục diễn đạt bằng lời và sẽ không có biến đổi. Chỉ biết cái gì là đúng là không đủ. Bạn phải biến đổi rễ; bằng không bạn sẽ không thay đổi.

Khi một người biết điều đúng và không thể làm được bất kì cái gì về nó, người đó trở nên căng thẳng gấp đôi. Người đó hiểu, nhưng người đó không thể làm được bất kì cái gì. Việc hiểu là có nghĩa chỉ khi nó đi tới rốn, từ rễ. Nếu bạn hiểu từ não, nó không phải là biến đổi.

Điều tối thượng không thể được biết qua não, vì khi bạn đang vận hành qua não bạn ở trong xung đột với rễ, từ chỗ bạn đã tới. Toàn thể vấn đề của bạn là ở chỗ bạn đã chuyển đi xa khỏi rốn. Bạn đã tới từ rốn và bạn sẽ chết qua nó. Người ta phải quay lại rễ. Nhưng quay lại là khó khăn, gian nan.

Kundalini yoga có liên quan tới năng lượng sống và luồng đi vào trong của nó. Nó có liên quan tới các kĩ thuật mang thân thể và tâm trí tới điểm mà siêu việt là có thể. Thế thì, mọi thứ được thay đổi. Thân thể là khác; tâm trí là khác; việc sống là khác. Nó chỉ là sự sống.

Xe bò kéo là hữu dụng, nhưng nó không còn được cần tới. Bây giờ bạn lái xe hơi, cho nên bạn không thể dùng kĩ thuật đã được dùng với xe bò kéo. Nó đã hữu dụng với xe bò kéo, nhưng nó là không liên quan với xe hơi.

Các phương pháp truyền thống có hấp dẫn vì chúng là cổ đại thế và nhiều người thế đã đạt tới qua chúng trong quá khứ. Chúng có thể đã trở thành không liên quan với chúng ta, nhưng chúng đã không phải là không liên quan với Phật, Mahavira, Patanjali hay Krishna. Chúng đã là có nghĩa, giúp ích. Các phương pháp cổ có thể là vô nghĩa bây giờ, nhưng vì Phật đã đạt tới qua chúng, chúng có hấp dẫn. Những người truyền thống cảm thấy: “Nếu Phật đã đạt tới qua những phương pháp này, tại sao mình không thể đạt tới được?” Nhưng chúng ta ở trong tình huống khác hoàn toàn bây giờ. Toàn thể bầu không khí, toàn thể trí quyển, đã thay đổi. Mọi phương pháp đều là gắn bó hữu cơ với một tình huống đặc biệt, với một tâm trí đặc biệt, với một người đặc biệt.

Cực đoan đối lập là cực đoan của Krishnamurti. Ông ấy phủ nhận mọi phương pháp. Nhưng làm điều đó, ông ấy phải phủ nhận Phật. Nó là mặt kia của cùng một đồng tiền. Nếu bạn phủ nhận phương pháp thế thì bạn phải phủ nhận Phật, và nếu bạn không phủ nhận Phật thế thì bạn không thể phủ nhận phương pháp của ông ấy.

Đây là những cực đoan. Cực đoan bao giờ cũng sai. Bạn không thể phủ nhận tính giả thông qua lấy vị trí cực đoan kia với nó, vì cực đoan đối lập sẽ vẫn là tính giả. Chân lí bao giờ cũng nằm đích xác ở giữa. Cho nên với tôi, sự kiện rằng các phương pháp cũ không có tác dụng ngụ ý rằng không phương pháp nào là hữu dụng. Nó chỉ có nghĩa rằng bản thân các phương pháp phải thay đổi.

Ngay cả vô phương pháp cũng là phương pháp. Có thể rằng với ai đó duy nhất vô phương pháp sẽ là phương pháp. Phương pháp bao giờ cũng là đúng khi liên quan tới một người đặc biệt; nó không bao giờ là chung chung. Khi chân lí được nói chung chung, chúng trở thành sai. Cho nên bất kì khi nào bất kì cái gì được dùng hay bất kì cái gì được nói, nó bao giờ cũng được nói cho một người đặc biệt: cho sự chú ý của người đó, cho tâm trí của người đó, cho người đó và không cho người khác.

Điều này nữa đã trở thành khó khăn bây giờ. Vào thời xưa bao giờ cũng có mối quan hệ một-một giữa thầy giáo và đệ tử. Nó đã là quan hệ cá nhân và trao đổi cá nhân.

Ngày nay nó bao giờ cũng mang tính vô nhân. Người ta phải nói cho đám đông, cho nên người ta phải nói chung chung. Nhưng chân lí được nói chung chung trở thành giả. Cái gì đó có nghĩa chỉ đối với cá nhân đặc biệt.

Tôi đối diện với khó khăn này hàng ngày. Nếu bạn tới tôi và hỏi tôi cái gì đó, tôi trả lời bạn và không trả lời cho người nào khác. Lần khác ai đó khác hỏi tôi cái gì đó, và tôi trả lời người đó chứ không ai khác. Hai câu trả lời này thậm chí có thể mâu thuẫn, vì hai người đã hỏi có thể là mâu thuẫn nhau. Cho nên nếu tôi định giúp bạn, tôi phải nói riêng cho bạn. Và nếu tôi nói riêng cho từng cá nhân, tôi sẽ phải nói nhiều điều xung đột.

Bất kì người nào đã từng nói chung chung có thể là nhất quán, nhưng thế thì chân lí trở thành giả, vì mọi phát biểu là thực thì nhất định được nói cho một người đặc biệt. Tất nhiên, chân lí là vĩnh hằng – nó không bao giờ mới, không bao giờ cũ – nhưng chân lí là việc nhận ra, là mục đích. Phương tiện bao giờ cũng có liên quan hay không liên quan tới người đặc biệt, tới tâm trí đặc biệt, tới thái độ đặc biệt.

Như tôi thấy tình huống này, con người hiện đại đã thay đổi nhiều tới mức người đó cần phương pháp mới, kĩ thuật mới. Các phương pháp hỗn độn sẽ giúp tâm trí hiện đại vì tâm trí hiện đại, bản thân nó, là hỗn độn. Hỗn độn này, tính nổi dậy này trong con người hiện đại, thực ra, là việc nổi dậy của các thứ khác: của thân thể chống lại tâm trí và chống lại các kìm nén của nó. Nếu chúng ta nói về nó theo thuật ngữ yoga chúng ta có thể nói rằng nó là việc nổi dậy của trung tâm tim và trung tâm rốn chống lại não.

Những trung tâm này chống lại não vì não đã chiếm độc quyền toàn thể lãnh thổ của hồn con người. Điều này không thể được dung thứ thêm nữa. Đó là lí do tại sao các đại học đã trở thành các trung tâm nổi dậy. Điều đó không là ngẫu nhiên. Nếu toàn thể xã hội được coi như thân thể hữu cơ, thế thì đại học là cái đầu, bộ não.

Vì tính nổi dậy của tâm trí hiện đại, nó nhất định khoan dung với các phương pháp chùng lỏng và hỗn độn. Thiền Động sẽ giúp để chuyển trung tâm của ý thức xa khỏi não. Thế thì người dùng nó sẽ không bao giờ có tính nổi dậy, vì nguyên nhân của nổi dậy trở nên được đáp ứng. Người đó sẽ thoải mái.

Cho nên với tôi, thiền không chỉ là cứu giúp cho cá nhân, biến đổi cho cá nhân; nó cũng có thể cung cấp cơ sở cho biến đổi của toàn xã hội, của con người như vậy. Con người sẽ không phải tự tử, hay con người sẽ phải biến đổi năng lượng của mình.

Từ “Tâm lí của bí truyền”, ch.4