Từ bi là việc nở hoa tối thượng của tâm thức. Nó là đam mê được thoát ra khỏi mọi bóng tối, nó là đam mê được tự do khỏi mọi sự lệ thuộc, nó là đam mê được làm thuần khiết khỏi mọi chất độc. Đam mê trở thành từ bi. Đam mê là hạt mầm, từ bi là việc nở hoa của nó.
Nhưng từ bi không phải là tử tế, tử tế không phải là từ bi. Tử tế là thái độ bản ngã, nó làm mạnh cho bản ngã của bạn. Khi bạn tử tế với ai đó, bạn cảm thấy có ưu thế hơn. Khi bạn tử tế với ai đó có xúc phạm sâu — bạn đang làm bẽ mặt người khác, bạn đang cảm thấy hài lòng trong sự bẽ mặt của người đó. Đó là lí do tại sao tử tế không bao giờ có thể được tha thứ. Bất kì người nào mà bạn đã từng tử tế, sẽ vẫn còn giận bạn ở đâu đó bằng cách nào đó, nhất định trả thù. Vì tử tế chỉ là trên bề mặt thì như từ bi, nhưng sâu trong chiều sâu nó chẳng liên quan gì tới từ bi. Nó có động cơ kín khác.
Từ bi không có mục đích, nó không có động cơ chút nào. Nó đơn giản hiện hữu vì bạn có, bạn cho — không phải là người khác cần. Người khác không phải là việc xem xét tới chút nào trong từ bi. Vì bạn có, bạn liên tục tuôn tràn. Từ bi là rất tự phát, tự nhiên, như việc thở. Tử tế là thái độ được tu dưỡng. Tử tế là một loại tinh ranh; nó là tính toán, nó là số học.
Bạn đã nghe nói về một trong những câu ngạn ngữ quan trọng nhất — nó xảy ra trong gần như mọi kinh sách của thế giới dưới dạng này hay dạng khác: Đối xử với người khác như bạn muốn người ta đối xử với bạn. Đây là thái độ có tính toán, đây không phải là từ bi. Điều này chẳng liên quan gì tới tôn giáo — nó là một loại đạo đức rất thấp, một đạo đức rất trần tục: Đối xử với người khác như bạn muốn người ta đối xử với bạn. Nó rất giống kinh doanh, nó không phải là tôn giáo chút nào. Bạn đang làm chỉ vì bạn muốn đích xác cùng điều đó được đáp lại. Điều đó là ích kỉ, điều đó là lấy cái ngã làm trung tâm, điều đó là tính bản ngã. Bạn không phục vụ người khác, bạn không yêu người khác — theo cách vòng vo bạn đang phục vụ bản thân bạn. Bạn đang dùng người khác.
Đó là thái độ bản ngã rất được soi sáng, nhưng nó là thái độ bản ngã — rất thông minh, nhưng nó là thái độ bản ngã. Từ bi là việc nở hoa, tuôn chảy rất không tính toán. Bạn đơn giản liên tục cho vì không có cách khác để hiện hữu.
Cho nên nhớ, điều thứ nhất: nó không phải là tử tế, theo một nghĩa nào đó — theo nghĩa bạn dùng từ ‘tử tế’ nó không phải là tử tế. Theo nghĩa khác, từ bi là tử tế thực. Bạn không là tử tế với ai đó, bạn không lớn hơn người khác, bạn đơn giản phát ra năng lượng mà bạn đang nhận từ cái toàn thể. Nó tới từ cái toàn thể, nó đi tới cái toàn thể — bạn không đứng như vật chướng ngại, có vậy thôi.
Khi Alexander tới Ấn Độ ông ấy đã đi tới gặp một nhà huyền bí lớn, Diogenes. Và Diogenes đang nằm trong lòng sông, tắm nắng. Alexander bao giờ cũng nuôi ham muốn gặp người này Diogenes, vì ông ta đã nghe nói rằng người này chẳng có gì, vậy mà không có người nào khác giầu có hơn người này. Ông ấy có cái gì đó bên trong, ông ấy có sự hiện diện chói sáng. Ông ấy là người ăn xin, nhưng ông ấy thực sự là hoàng đế. Cho nên Alexander đã trở nên mê say. Khi tới Ấn Độ ông ta nghe nói rằng Diogenes đã ở ngay bên, cho nên ông ta đi để gặp ông này.
Sáng sớm, mặt trời đang mọc, Diogenes đang nằm trần trụi trên cát. Alexander nói, ‘Ta hài lòng gặp ông. Bất kì cái gì ta đã nghe nói đều dường như là đúng. Ta chưa bao giờ thấy một người hạnh phúc hơn. Ta có thể làm cái gì đó cho ông được không, thưa ông?’ Và Diogenes nói, ‘Ông đứng dịch sang bên đi — ông đang cản mặt trời. Và nhớ! đừng bao giờ cản mặt trời. Ông là nguy hiểm, ông có thể cản mặt trời chiếu tới nhiều người. Cứ đứng dẹp sang bên đi.’
Từ bi không phải là cái gì đó bạn cho người khác, nó đơn giản là không cản mặt trời. Thấy ra vấn đề về điều đó đi: Nó đơn giản là không cản Thượng đế. Nó là trở thành phương tiện của điều thiêng liêng, nó đơn giản là cho phép điều thiêng liên chảy qua bạn. Bạn trở thành cây trúc hổng và Thượng đế liên tục chảy qua bạn. Bạn có biết không? Chỉ trúc hổng có thể trở thành sáo — vì chỉ trúc hổng có năng lực cho phép bài ca chảy qua nó.
Từ bi không phải là từ bạn, từ bi là từ Thượng đế; tử tế là từ bạn — điều đầu tiên cần được hiểu. Tử tế là cái gì đó mà bạn làm, từ bi là cái gì đó mà Thượng đế làm. Bạn đơn giản không cản, bạn không tới giữa đường, bạn không đứng trên đường. Bạn cho phép mặt trời lọt vào, xuyên vào, đi tới bất kì chỗ nào nó muốn.
Tử tế làm mạnh cho bản ngã — và từ bi là có thể chỉ khi bản ngã biến mất hoàn toàn. Cho nên đừng bị nhầm lẫn theo từ điển của bạn, vì trong từ điển bạn sẽ thấy từ bi là đồng nghĩa với tử tế. Nó không phải là vậy trong từ điển thực của sự tồn tại. Và Thiền chỉ có một từ điển, từ điển của vũ trụ.
Người Mô ha mét giáo có Koran linh thiêng là kinh sách của họ và người Hindu có Veda là kinh sách của họ, và người Sikkhas có Gurugranth, và người Ki tô giáo có Kinh Thánh là kinh sách của họ, và người Do Thái có Talmud. Nếu bạn hỏi tôi, ‘Kinh sách của Thiền là gì?’ họ không có kinh sách nào, kinh sách của họ là vũ trụ này. Và đó là cái đẹp của Thiền.
Trong mọi tảng đá đều là bài giảng, và trong mọi tiếng chim Thượng đế đang kể chuyện. Trong mọi chuyển động quanh bạn đó là Thượng đế nhảy múa.
Từ bi là khi bạn cho phép bài ca vĩnh hằng này chảy qua bạn, đập rộn ràng qua bạn — khi bạn hợp tác với điều thiêng liêng này, khi bạn đi tay trong tay với Thượng đế. Điều đó chẳng liên quan gì tới bạn; bạn phải biến mất để cho nó hiện hữu. Để từ bi hiện hữu, bạn phải biến mất hoàn toàn — nó chỉ chảy trong việc thiếu vắng bạn.
Tử tế được trau dồi làm cho bạn thành rất bản ngã. Bạn có thể đi và thấy: những người tử tế là rất rất bản ngã, bản ngã còn hơn những người độc ác. Điều này là kì lạ. Người độc ác cảm thấy hơi chút mặc cảm nữa, nhưng cái gọi là người tử tế cảm thấy hoàn toàn được — bao giờ cũng thánh thiện hơn ngươi, bao giờ cũng tốt hơn người khác. Ông ta rất rất ý thức tới cái ngã trong điều ông ta làm; từng hành động của ông ta đều mang lại nhiều năng lượng hơn và nhiều quyền lực hơn cho bản ngã của ông ta. Ông ta đang trở thành ngày một lớn hơn mọi ngày. Toàn thể hành trình là của bản ngã.
Đây là điều thứ nhất, từ bi không phải là cái gọi là tử tế. Nó có phần bản chất của tử tế trong nó — phần bản chất của việc là dịu dàng, của việc là thông cảm, của việc là đồng cảm, của việc là không gay gắt, của việc là sáng tạo, của việc là giúp đỡ. Nhưng không cái gì được làm như hành động về phần bạn; mọi thứ chảy qua bạn. Nó là từ Thượng đế, và bạn hạnh phúc và cám ơn rằng Thượng đế đã chọn bạn làm phương tiện. Bạn trở nên trong suốt và nó đi qua bạn. Bạn trở thành kính trong suốt cho nên mặt trời đi qua bạn — bạn không cản trở. Nó là tử tế thuần khiết không có bản ngã trong nó.
Điều thứ hai: từ bi cũng không phải cái gọi là yêu của bạn. Nó có phẩm chất bản chất của yêu, nhưng nó không phải là yêu của bạn. Yêu của bạn chỉ là thèm khát phô trương như yêu. Yêu của bạn chẳng có liên quan gì tới yêu — nó là một loại khai thác người khác, trong cái tên đẹp, với khẩu hiệu lớn lao.
Bạn liên tục nói ‘Anh (Em) yêu em (anh)’ — nhưng bạn đã bao giờ yêu bất kì người nào chưa? Bạn đã đơn giản dùng người khác; bạn đã không yêu. Thế thì làm sao việc dùng người khác có thể trở thành yêu được? Thật ra, dùng người khác là hành động có tính phá hủy lớn nhất trên thế giới — vì dùng người khác như phương tiện là tội ác.
Immanuel Kant, khi mô tả quan niệm của mình về đạo đức, nói: ‘Dùng người khác như phương tiện là vô đạo đức — hành động vô đạo đức cơ bản.’ Đừng bao giờ dùng người khác như phương tiện, vì mọi người đều là mục đích lên bản thân người đó. Kính trọng người khác như mục đích lên bản thân người đó đi. Khi bạn kính trọng người khác như mục đích lên bản thân người đó, bạn yêu. Khi bạn bắt đầu dùng — chồng dùng vợ, vợ dùng chồng – có động cơ, và bạn có thể thấy điều đó khắp xung quanh.
Mọi người không bị phá hủy bởi ghét, mọi người bị phá hủy bởi cái gọi là yêu của họ. Và vì họ gọi nó là yêu, họ không thể nhìn vào trong nó được. Vì họ gọi nó là yêu, họ nghĩ nó phải là tốt và ổn thỏa. Nó không vậy. Nhân loại chịu khổ từ bệnh này của cái gọi là yêu. Nếu bạn nhìn sâu bên dưới trong nó, bạn sẽ thấy sự thèm khát trần trụi. Thèm khát không phải là yêu. Thèm khát muốn lấy, yêu muốn cho. Toàn thể nhấn mạnh của thèm khát là: Lấy thật nhiều khi bạn có thể lấy, và cho thật ít khi bạn có thể cho. Cho ít, lấy nhiều. Nếu bạn phải cho, cho nó chỉ như mồi.
Thèm khát tuyệt đối là việc mặc cả. Vâng, bạn phải cho cái gì đó, vì bạn muốn lấy — nhưng lấy nhiều hơn và cho ít hơn. Đó là điều tâm trí kinh doanh là gì. Nếu bạn có thể lấy mà không cho, tốt. Nếu bạn không thể lấy mà không cho, thế thì cho chút ít thôi, giả vờ rằng bạn đang cho rất nhiều, và vồ lấy cái toàn thể từ người khác.
Khai thác là điều thèm khát là gì. Yêu không phải là khai thác. Cho nên từ bi không phải là yêu theo nghĩa bình thường, và vậy mà nó là yêu theo nghĩa thực của nó. Từ bi chỉ cho, nó không biết tới ý tưởng về lấy. Không phải là nó không lấy, không — không bao giờ nghĩ tới điều đó dù một khoảnh khắc. Khi bạn cho mà không có bất kì ý tưởng vào về việc lấy, bạn được cả nghìn lần. Nhưng đó là chuyện khác; điều đó chẳng liên quan gì tới bạn. Và khi bạn muốn lấy quá nhiều, thật ra bạn chỉ bị lừa; bạn không lấy được bất kì cái gì. Chung cuộc, bạn chỉ vỡ mộng.
Từng chuyện tình đều kết thúc trong tan vỡ ảo tưởng. Bạn đã chẳng quan sát điều đó sao, rằng từng chuyện tình chung cuộc để bỏ bạn trong rãnh buồn tủi, sầu não, về việc bị lừa? Từ bi không biết tới tan vỡ ảo tưởng, vì từ bi không bắt đầu với ảo tưởng. Từ bi không bao giờ đòi hỏi bất kì việc đáp lại nào, không có nhu cầu. Đầu tiên, ‘Vì nó không phải là năng lượng của tôi mà tôi đang cho, nó là năng lượng của Thượng đế. Tôi là ai mà đòi hỏi bất kì cái gì cho nó?’ Ngay cả đòi hỏi lời cám ơn cũng là vô nghĩa.
Đó là điều đã xảy ra khi một người tới Jesus và Jesus đã chạm vào người đó và anh ta được chữa lành. Và người này cám ơn Jesus — cũng là tự nhiên, anh ta đã mang lòng biết ơn mênh mông. Anh ta đã từng khổ bởi bệnh đó trong nhiều năm và đã không được chữa lành và các lương y đã bảo anh ta rằng ‘Bây giờ không cái gì có thể được làm, anh phải chấp nhận điều đó.’ Và anh ta giờ được chữa lành.
Và Jesus nói, ‘Không thưa ông, đừng cám ơn ta, cám ơn Thượng đế đi. Đó là cái gì đó đã xảy ra giữa ông và Thượng đế! Ta không là ai cả trong việc đó. Chính đức tin của ông đã chữa lành cho ông, và chính năng lượng của Thượng đế đã trở thành sẵn có vì đức tin của ông. Nhiều nhất ta chỉ là chiếc cầu — chiếc cầu qua đó năng lượng của Thượng đế và đức tin của ông đã nắm tay nhau. Ông không cần phải lo nghĩ về ta, ông không cần cám ơn ta. Cám ơn Thượng đế đi. Cám ơn đức tin riêng của ông đi. Cái gì đó đã xảy ra giữa ông và Thượng đế. Ta không tới từ bất kì đâu.’
Đây là điều từ bi là gì. Từ bi liên tục cho, nhưng không biết tới cảm giác về cho, không biết tới cảm giác rằng ‘Ta là người cho’. Và thế thì sự tồn tại liên tục đáp ứng theo cả nghìn cách. Bạn cho chút ít yêu và từ khắp mọi nơi yêu bắt đầu tuôn chảy. Con người của từ bi không cố chộp giật, người đó không tham. Người đó không đợi sự đáp lại, người đó liên tục cho. Người đó liên tục lấy — nhưng điều đó không trong tâm trí của người đó.
Cho nên, điều thứ hai: từ bi không phải là cái gọi là yêu, và vậy mà nó là yêu thực.
Điều thứ ba: từ bi là thông minh nhưng không trí tuệ. Khi thông minh được tự do khỏi mọi hình tướng, khỏi mọi hình tướng logic, khi thông minh được tự do khỏi mọi tranh cãi, khi thông minh được tự do khỏi cái gọi là tính hợp lí — vì tính hợp lí là việc giam hãm — khi thông minh là tự do, nó là từ bi. Con người của từ bi là thông minh vô cùng, nhưng người đó không là nhà trí thức. Người đó có thể thấy thấu suốt, người đó có cái nhìn tuyệt đối, người đó có mắt thực để thấy, không cái gì bị giấu kín với người đó — nhưng đó không phải là phỏng đoán. Nó không qua logic, nó không qua suy diễn, nó là qua cái nhìn rõ ràng.
Nhớ điều đó: con người của từ bi không phải là không thông minh, nhưng người đó không là người trí thức. Người đó là thông minh vô cùng, người đó là chính hiện thân của thông minh. Người đó là sự rạng ngời thuần khiết. Người đó biết — nhưng người đó không nghĩ. Phỏng có ích gì mà nghĩ khi bạn biết? Bạn nghĩ chỉ như cái thay thế. Vì bạn không biết, do đó bạn nghĩ. Vì bạn không thể biết, do đó bạn nghĩ. Suy nghĩ là quá trình thay thế — nó là việc thay thế nghèo nàn, nhớ lấy. Khi bạn có thể biết, khi bạn có thể thấy, ai bận tâm nghĩ?
Con người của từ bi biết; người trí thức nghĩ. Người trí thức là nhà tư tưởng và con người của từ bi là không là nhà tư tưởng, không là người trí thức. Thông minh người đó có, thông minh vô cùng người đó có, nhưng thông minh của người đó không vận hành qua hình mẫu của trí tuệ. Thông minh vận hành một cách trực giác.
Và điều thứ tư: từ bi không là xúc cảm — vì xúc cảm có nhiều thứ trong nó mà không có trong từ bi chút nào. Xúc cảm có tính ủy mị, đa cảm — những thứ đó không tồn tại trong từ bi. Con người của từ bi cảm, nhưng không có bất kì xúc động nào. Người đó cảm, nhưng không có ủy mị. Người đó sẽ làm bất kì cái gì được cần, vậy mà người đó vẫn còn không bị nó động chạm tới. Điều này phải được hiểu rất sâu. Và một khi bạn hiểu từ bi, bạn đã hiểu Phật là gì.
Ai đó khổ: con người của xúc cảm sẽ bắt đầu khóc. Khóc sẽ không giúp được gì. Nhà của ai đó cháy: con người của xúc cảm sẽ kêu và khóc và đấm ngực mình. Điều đó sẽ không giúp được gì. Con người của từ bi sẽ bắt đầu hoạt động — người đó sẽ không khóc, điều đó là vô dụng. Nước mắt không giúp gì. Nước mắt không thể dập tắt lửa, nước mắt không thể trở thành thuốc cho đau khổ, nước mắt không thể giúp cho người chết đuối.
Một người đang chết đuối và bạn đang đứng trên bờ và kêu khóc — và kêu khóc thực sự mãnh liệt. Bạn là con người của xúc cảm, chắc chắn, nhưng không là con người của từ bi. Con người của từ bi hành động. Con người của từ bi lập tức nhảy vào hành động. Hành động của người đó là tức khắc; người đó không do dự lấy một khoảnh khắc. Hành động của người đó là tức khắc — khoảnh khắc cái gì đó nảy sinh trong cái nhìn của người đó, người đó lập tức chuyển nó thành hành động. Đúng ra không phải là người đó chuyển — cái đó được chuyển. Hiểu biết của người đó và hành động của người đó là hai mặt của cùng một hiện tượng, chúng không phải là hai thứ tách rời. Mặt này của nó được gọi là hiểu biết, mặt kia của nó được gọi là hành động.
Đó là lí do tại sao tôi nói người tôn giáo bởi chính bản chất của người đó, là được tham gia, được cam kết — được cam kết với sự sống, được cam kết với Thượng đế. Người đó sẽ không kêu và khóc. Con người của xúc cảm đôi khi có vẻ dường như người đó là con người của từ bi. Đừng bị nhầm lẫn — con người của xúc cảm là vô dụng. Thật ra người đó sẽ tạo ra nhiều lộn xộn hơn. Người đó sẽ không giúp ích gì, người đó sẽ tạo ra nhiều xáo trộn hơn. Người đó sẽ làm trễ mọi thứ thay vì là sự giúp đỡ.
Con người của từ bi là sắc sảo. Không nước mắt, không xúc động, người đó đơn giản đi vào trong hành động. Người đó không lạnh lùng, nhưng người đó cũng không nồng nhiệt. Người đó đơn giản ấm áp. Và điềm tĩnh. Đó là nghịch lí của con người của từ bi. Người đó ấm áp, vì người đó đang yêu, và vậy mà người đó giữ điềm tĩnh của mình. Điềm tĩnh của người đó không bao giờ bị mất; bất kì cái gì xảy ra người đó vẫn còn điềm tĩnh, và từ điềm tĩnh của mình, người đó hành động. Và vì người đó vẫn còn điềm tĩnh, người đó giúp đỡ.
Bốn điều này để được hiểu, thế thì bạn có cái nhìn từ bốn chiều về từ bi là gì.
Từ “Thiền: con đường của nghịch lí”, t.2, ch. 3